|
Teresa
Calcutta - Dịch giả: Ngọc
Đính, CMC |
|
Ch
19:
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ MẸ TÊ-RÊ-XA
Ngày 16.8.1910: Mẹ
Tê-rê-xa chào đời.
Mẹ là con gái của ông Ni-cô-la Bô-da-xi-u (Nikolle Bojaxhiu) và
bà Ra-na Béc-nai (Ra-na Bernai) gốc người Ý, chào đời tại Xơ-kốp-dê
(Skopje), thủ phủ của cộng hòa An-ba-ni thuộc Ma-xê-đô-ni-a. Mẹ
Tê-rê-xa là con thứ ba và là con út trong gia đình, có chị là
A-ga (A-ga), chào đời năm 1905 và anh là La-gia (La-gia), chào
đời năm 1907. Ông Ni-cô-la và bà Ra-na thành hôn với nhau vào
năm 1900.
Ngày 27.8.1910: Mẹ Tê-rê-xa được chịu phép Thánh Tẩy.
Mẹ được chịu phép Thánh Tẩy tại nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm Chúa
Giê-su và được nhận thánh hiệu A-nê (Gonxha - A-nê). Cha mẹ là
những tín hữu Công Giáo nhiệt thành, nhất là người mẹ.
1919: Cha qua đời.
Ông Ni-cô-la đã chết vì bị đầu độc sau khi tham dự một buổi hội
họp chính trị. Ông là thành viên hội đồng thành phố có tư tưởng
quốc gia mạnh mẽ.
1915-1924: Học hành và đời sống trong gia đình.
Cùng với anh và chị, A-nê được đến trường học tập. A-nê học giỏi
mặc dù sức khỏe có phần hơi yếu, em cũng dự các lớp giáo lý trong
xứ đạo, tham gia ca đoàn và một hội đoàn Công Giáo dành cho các
bạn trẻ là hội “Con Đức Mẹ.” Cô đặc biệt yêu thích đọc các sách
về những nhà truyền giáo và hạnh tích các thánh.
Mẹ Tê-rê-xa đúc kết cuộc sống thời thơ ấu và thiếu niên của mình
với gia đình như sau: “Chúng tôi rất hợp nhất với nhau, nhất là
sau cái chết của cha tôi. Chúng tôi sống cho nhau và ai cũng hết
sức làm cho người khác được hạnh phúc. Chúng tôi là một gia đình
rất gắn bó và rất hạnh phúc.”
La-gia, người con trai duy nhất trong gia đình đã nói về đời sống
đạo của mẹ và các chị em gái như sau: “Chúng tôi sống cạnh nhà
thờ giáo xứ Thánh Tâm Chúa. Đôi khi, mẹ và các chị em gái của
tôi xem ra sống ở nhà thờ cũng nhiều giờ như sống ở gia đình.
Lúc nào họ cũng quan tâm đến ca đoàn, các nghi lễ đạo đức, và
những đề tài truyền giáo.”
La-gia cũng nói thêm về tấm lòng quảng đại của người mẹ: “Mẹ tôi
không bao giờ để bất kỳ người nghèo khó nào đến cửa nhà chúng
tôi hành khất mà phải ra về tay không. Khi chúng tôi nhìn mẹ tỏ
vẻ lạ lùng, mẹ tôi thường nói, ‘các con hãy nhớ rằng những người
tuy không ruột thịt với mình nhưng nếu họ nghèo khó, họ vẫn là
anh chị em của chúng ta.’”
Đến năm 12 tuổi, lần đầu tiên A-nê nhận ra tiếng gọi nhẹ nhàng
kêu mời em theo đuổi nếp sống tu trì và truyền giáo, tiếng gọi
ấy vẫn tiềm sinh trong tâm hồn em suốt nhiều năm. Trong thời gian
ấy, em tiếp tục sinh hoạt tích cực với hội “Con Đức Mẹ,” và ý
chí hiến thân truyền giáo càng được hun đúc nhờ sự khuyến khích
của các cha dòng Tên coi sóc giáo xứ. Người anh của A-nê là La-gia
đến Áo để học tập và trở thành một sĩ quan kỵ binh trong học viện
quân sự tại đó.
1928: Tiếng gọi gia nhập dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô.
Sở nguyện truyền giáo của A-nê còn được xác định hơn nữa qua lời
mời gọi rõ ràng theo đuổi đời sống tu trì khi A-nê cầu nguyện
trước tòa Đức Mẹ, bổn mạng vùng Xơ-kốp-dê: “Xin Đức Mẹ cầu bầu
và giúp con tìm ra ơn gọi của con.” Với sự hướng dẫn và trợ giúp
của một linh mục dòng Tên người Nam Tư, A-nê xin gia nhập dòng
Đức Mẹ Lô-rét-tô (thường gọi là dòng Các Bà Ái Nhĩ Lan). A-nê
bị hấp dẫn vì công việc truyền giáo của hội dòng này tại Ấn Độ.
Ngày 26.9.1928: Cuộc hành trình đến Nhà Mẹ dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô
tại Ái Nhĩ Lan.
Sau khi được chấp thuận, A-nê đến thủ đô Đu-bơ-lin (Dublin) của
Ái Nhĩ Lan. Cô đáp tàu lửa đi qua các nước Nam Tư, Áo, Thụy Sĩ,
Pháp, Anh, và sau cùng đã đến được Nhà Mẹ của dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô.
Ngày 1.12.1928: Hành trình đến Ấn Độ.
Sau hai tháng theo học khóa Anh văn cấp tốc, A-nê lên tàu thủy
đi Ấn Độ và đến nơi vào ngày 6.1.1929 sau 37 ngày.
A-nê ở lại Can-quít-ta một tuần lễ và sau đó được sai đến miền
Đa-di-ling (Darjeeling) nằm dưới chân núi Hi-ma-lay-a để bắt đầu
năm tập.
Ngày 24.5.1931: Khấn Tạm.
Sau thời gian hai năm trong tập viện, A-nê tuyên lời khấn tạm
trở thành một nữ tu của dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô, và đổi tên rửa
tội để lấy tên Tê-rê-xa. “Tôi chọn tên Tê-rê-xa khi khấn dòng.
Nhưng đó không phải là tên của thánh Tê-rê-xa Mẹ. Tôi đã chọn
tên của thánh Tê-rê-xa Bông Hoa Nhỏ, Tê-rê-xa thành Li-di-ơ.”
1930-1937: Nữ tu Tê-rê-xa tại Can-quít-ta.
Sau khi khấn tạm, nữ tu Tê-rê-xa sống tại Can-quít-ta và phục
vụ trong công tác làm giáo viên dạy địa lý và lịch sử tại trường
Thánh Mẫu Ma-ri-a do dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô điều khiển.
Ngày 24.5.1937: Khấn trọn đời.
Sau nhiều năm khấn tạm, nữ tu Tê-rê-xa đã tuyên khấn trọn đời
trong dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô, một dòng tu được thành lập tại Anh
Quốc hồi thế kỷ XVI do Mẹ Ma-ri Oát (Mary Ward).
Mẹ Tê-rê-xa đã tóm tắt về cuộc sống tu trì của mình trong dòng
Đức Mẹ Lô-rét-tô như sau: “Tôi là nữ tu hạnh phúc nhất trong dòng
Đức Mẹ Lô-rét-tô. Tôi chuyên việc dạy học. Công tác ấy được thực
hiện vì lòng yêu mến Chúa thật là một việc tông đồ thực sự. Tôi
rất thích công tác ấy.” Mẹ đã trở thành giám học của trường Thánh
Mẫu Ma-ri-a.
Ngày 10.9.1946: Ngày được ơn soi sáng lập dòng.
Mẹ Tê-rê-xa đã gọi ngày này bằng cái tên như vậy. Mẹ kể lại, “Trên
chuyến xe lửa đi từ Can-quít-ta đến Đa-di-ling để tham dự cuộc
tĩnh tâm, tôi âm thầm cầu nguyện khi cảm nhận sâu sắc một tiếng
gọi. Sứ điệp ấy rất rõ ràng. Tôi phải bỏ dòng để dấn thân giúp
đỡ những người nghèo khó bằng cách sống giữa họ. Tiếng gọi đó
là một lệnh truyền. Tôi đã biết nơi mình phải đến, nhưng không
biết phải đi đến đó bằng cách nào.”
Ngày 16.8.1948: Tòa Thánh ban phép cho Mẹ theo đuổi ơn gọi mới.
Rời bỏ dòng Đức Mẹ Lô-rét-tô là một việc khó khăn và đau đớn đối
với nữ tu Tê-rê-xa. Để thực hiện điều đó, nữ tu Tê-rê-xa cần phải
có phép đặc biệt của Tòa Thánh Rô-ma sau khi nhận được sự đồng
ý của nhà dòng. Sau cùng, Tòa Thánh cũng ban cho Mẹ phép chuẩn
sống như một nữ tu ngoài tu viện. Mẹ rời bỏ nhà dòng ngày 16.8.1948,
sau khi đã để lại tu phục của dòng cũ và mặc lấy bộ áo sa-ri trắng
để nên giống những người phụ nữ nghèo khó nhất tại Ấn Độ. Bộ áo
sa-ri với viền xanh biểu hiện khát vọng muốn noi gương Mẹ Ma-ri-a
Đồng Trinh.
Mẹ Tê-rê-xa rời thành phố Can-quít-ta để theo học khóa điều dưỡng
cơ bản cấp tốc ba tháng, sau đó trở lại và thực hiện khát vọng
hiến thân phục vụ những người nghèo khó khốn cùng nhất tại các
khu ổ chuột ở thành phố Can-quít-ta. Cũng trong năm đó, Mẹ Tê-rê-xa
nộp đơn xin làm công dân Ấn Độ và được chấp thuận, quyền công
dân này Mẹ vẫn giữ suốt đời. Đến cuối thập niên 1970, Đức Phao-lô
VI cũng ban cho Mẹ quyền công dân Vatican để tiện việc đi lại
truyền giáo của Mẹ.
Ngày 19.3.1949: Người môn đệ đầu tiên bước theo ơn gọi mới của
Mẹ Tê-rê-xa.
Cô Xu-ba-xi-ni Đát (Subashini Das), một học sinh cũ của Mẹ Tê-rê-xa,
bất ngờ đến thăm Mẹ và nói rằng rất muốn được bước theo lý tưởng
của Mẹ. Cô là nữ tu đầu tiên của một dòng tu, tuy nhiên vào thời
điểm ấy vẫn chưa thành hình.
Ngày 10.7.1950: Dòng Thừa Sai Bác Ái được Tòa Thánh Rô-ma chuẩn
nhận.
Con số đông đảo các thiếu nữ theo chân cô Xu-ba-xi-ni Đát tìm
đến với Mẹ Tê-rê-xa xem ra rất hứa hẹn. Mẹ Tê-rê-xa kể lại, “Sau
năm 1949, tôi thấy có những thiếu nữ lần lượt tìm đến. Tất cả
đều là các học sinh cũ của tôi. Họ muốn tận hiến trọn vẹn cho
Thiên Chúa và rất nóng lòng muốn thực hiện điều đó.” Ngày 7.10.1950,
vào ngày lễ Mẹ Mân Côi, Tòa Thánh Rô-ma đã chuẩn nhận dòng Thừa
Sai Bác Ái. Mười chí nguyện sinh được nhập tập viện với thời gian
kéo dài hai năm.
Ngày 22.8.1952: Nhà Hấp Hối dành cho người cùng khổ được thành
lập.
Lúc đó, trong dòng có khoảng 30 chị em. Khoảng 12 chị đã tuyên
khấn trọn đời. Cũng có khoảng 12 chị khác là tập sinh và số còn
lại là đệ tử. Các nữ tu cần có một trụ sở riêng. Lúc ấy họ vẫn
là “khách trọ” sống trong một căn hộ thuê, do ông Mi-ca-e Gô-mét
(Michael Gomes) tài trợ. Họ chuyên học tập và luyện tập đời tu
trì, trong lúc vẫn chăm sóc các trẻ em bị bỏ rơi, các người đau
yếu, và hấp hối nghèo khó tại các khu ổ chuột.
Mẹ Tê-rê-xa liệu được một ngôi nhà để phục vụ cho những người
hấp hối nghèo khó tại Ka-li-ghat, sát một đền thờ Ấn Giáo ở ngay
trung tâm thành phố Can-quít-ta. Ngôi nhà được khai trương vào
dịp lễ Đức Mẹ ngày 22.8.1952, và lập tức bị quá tải, tình trạng
này kéo dài như vậy suốt nhiều năm mặc dù luôn có người “xuất
viện,” nhưng cũng luôn nhận thêm người mới. Ngôi nhà được đặt
tên là Nirmal Hriday: Nhà của Trái Tim Thanh Khiết, một cái tên
được người Ấn Giáo đồng ý, vì phần đông những người đến ngôi nhà
này đều là các tín đồ Ấn Giáo.
1953: Nhà Mẹ dòng Thừa Sai Bác Ái được kiến lập.
Sau những lời cầu nguyện như “giông tố” được dâng lên trời, các
nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã mua được một ngôi nhà để làm tu
viện, tọa lạc tại số 54 Lower Circular Road tại thành phố Can-quít-ta.
Ngôi nhà này rộng rãi và tọa lạc tại một địa điểm rất thích thuận
cho các nhu cầu của dòng. Ngôi nhà này sau đó trở thành trụ sở
chính của dòng Thừa Sai Bác Ái.
Gần đó, trên cùng một con đường, các nữ tu còn thuê một căn nhà
khác và sau đó mua luôn để làm nhà cho các trẻ bị bỏ rơi và mồ
côi trong các khu ổ chuột. Nhiều cha mẹ của các em này đã qua
đời tại Nhà Hấp Hối dành cho những người nghèo khó.
Các nữ tu ngay từ đầu đã muốn mở một nhà cho những người cùi.
Tuy nhiên, vì sự chống đối của dân chúng nói chung, nên các nữ
tu phải lập các “trạm xá di động” giúp đỡ những bệnh nhân cùi.
Sau đó, các chị mới lập được các trung tâm phục hồi cho các bệnh
nhân phong cùi, gọi là Ti-ta-ga (Titagahr) và Xan-ti Na-ga (Shanti
Nagar), nằm ở ngoại ô thành phố Can-quít-ta.
1962: Mẹ Tê-rê-xa được nhận các giải thưởng tại Á Châu.
Mẹ Tê-rê-xa được vinh dự nhận giải thưởng Pát-na Xơ-ri (Padna
Sri) của chính phủ Ấn Độ trao tặng và giải thưởng Mắc-xê-xê (Magsaysay)
của các quốc gia Đông Nam Á thuộc tổ chức SEATO trao tặng. Mẹ
được tuyên nhận là người phụ nữ xứng đáng nhất tại Á Châu. Tuy
nhiên, tại phương Tây, Mẹ vẫn còn là một nhân vật vô danh đối
với nhiều người.
Ngày 1.2.1965: Dòng Thừa Sai Bác Ái phát triển.
Dòng Thừa Sai Bác Ái đến thời điểm này đã ra đời được 15 năm,
với một sức phát triển và lớn mạnh lạ thường. Dòng có khoảng 300
nữ tu và nhiều nhà. Cũng đã có những nữ tu thuộc các quốc tịch
Âu Châu. Tuy nhiên, tất cả các nhà của dòng vẫn còn trong lãnh
thổ Ấn Độ và thuộc quyền các giám mục địa phương. Với sự ủng hộ
của nhiều vị giám mục, đức Phao-lô VI đã ban sắc khen cho dòng
và nâng lên thành dòng thuộc quyền Tòa Thánh. Sắc lệnh ấy, cùng
với lời mời của đức tổng giám mục Ba-qui-xi-mê-tô (Barquisimeto)
tại nước Vê-nê-du-ê-la, xin Mẹ Tê-rê-xa mở một nhà tại giáo phận
của ngài, đã giúp cho dòng Thừa Sai Bác Ái phát triển công việc
của mình.
1965-1971: Các nhà mới được mở thêm khắp thế giới.
Nhà tại Vê-nê-du-ê-la là nhà đầu tiên được khai mở ở nước ngoài.
Trong những năm sau đó, các nhà kế tiếp được mở tại Phi Châu,
Úc (tại thành phố Meo-bơn và A-đơ-le), Âu Châu (Anh, Ý) để đáp
lại lời mời của các vị giám mục địa phương các nơi. Nhà đầu tiên
của dòng Thừa Sai Bác Ái ở Ý được thành lập tại Rô-ma để đáp lại
lời mời của chính đức Phao-lô VI trong tư cách giám mục giáo phận
Rô-ma. Đức Phao-lô VI là một người rất ngưỡng mộ và là một ân
nhân cho công việc của Mẹ Tê-rê-xa. Đến năm 1971, dòng Thừa Sai
Bác Ái đã có 15 nhà ở các nơi.
Ngày 26.3.1969: Hội cộng sự viên dòng Thừa sai Bác Ái chính thức
được thành lập.
Các cộng sự viên của Mẹ Tê-rê-xa trở thành một thực thể và một
yếu tố quan trọng để xúc tiến các công việc của dòng Thừa Sai
bác Ái. Thật khó khăn, nếu nói là không thể, xác định được con
số chính xác vì sự phát triển liên tục, cũng như sự thiếu lưu
ý của các Thừa Sai trong lưu giữ các con số thống kê chính xác.
Ngay từ khi được thành lập dòng đã có những cộng sự viên. Ngày
3.3.1969, Đức Phao-lô VI đã chấp thuận qui chế cho các cộng sự
viên của dòng và do đó, họ được chính thức sáp nhập vào dòng Thừa
Sai Bác Ái.
Ngày
12.7.1972: Thân mẫu của Mẹ Tê-rê-xa, bà Ra-na qua đời.
Bà thân mẫu của Mẹ Tê-rê-xa qua đời tại An-ba-ni. Bà cụ đã muốn
bỏ An-ba-ni để đến Ấn Độ thăm người con gái và đến đảo Xi-xi-li-a
để thăm người con trai trước khi qua đời, nhưng chính phủ An-ba-ni
đã từ chối không cho cấp giấy xuất cảnh cho bà.
Năm 1974: Bà A-ga Bô-da-xi-u, chị của Mẹ Tê-rê-xa, qua đời.
Bà cũng qua đời tại An-ba-ni mà không có cơ hội được gặp hai người
em đang ở nước ngoài.
Ngày 17.10.1979: Mẹ Tê-rê-xa được nhận giải thưởng Nô-ben Hòa
Bình.
Trong những năm của thập niên 1970, một nhà báo người Anh là Mắc-côm
Mơ-giơ-rít (Malcolm Muggeridge) đã làm cho Mẹ Tê-rê-xa được lừng
danh ở phương Tây, không những trong các giới Công Giáo mà còn
cả ở ngoài xã hội rộng khắp. Kết quả, Mẹ đã được nhận giải thưởng
“Người Sa-ma-ri-ta-nô Nhân Lành” của Hoa Kỳ; giải thưởng “Vì Tiến
Bộ Tôn Giáo” của Anh Quốc, và giải thưởng Gio-an XXIII của Tòa
Thánh Va-ti-can. Vào ngày 17.10.1979, Mẹ Tê-rê-xa còn được nhận
giải thưởng cao quí danh tiếng nhất trên hành tinh là giải thưởng
Nô-ben về Hòa Bình. Tuy nhiên, bản tính giản dị và khiêm tốn của
Mẹ không hề bị lay chuyển.
Ngày 10.12.1979: Mẹ Tê-rê-xa nhận lãnh giải thưởng Nô-ben Hòa
Bình.
Mẹ Tê-rê-xa đã đón nhận giải thưởng từ tay vua Ô-láp V (Olaf)
của Na Uy, nhân danh những người nghèo khó mà Mẹ là đại diện và
đã hiến cả cuộc đời để phục vụ.
1980-1985: dòng Thừa Sai Bác Ái mở thêm nhiều nhà mới và được
chúc lành qua nhiều ơn gọi mới.
Năm 1980 hội dòng có 14 nhà bên ngoài Ấn Độ, tại nhiều nước khác
nhau như Li-băng, Tây Đức, Nam Tư, Mê-hi-cô, Bơ-ra-xin, Pê-ru,
Kê-ni-a, Ha-i-ti, Tây Ban Nha, Ê-ti-ô-pi, Bỉ, Niu Gui-nê, và Ác-hen-ti-na.
Sau khi Mẹ Tê-rê-xa được nhận giải thưởng Nô-ben Hòa Bình, tốc
độ phát triển của dòng Thừa Sai Bác Ái rất ngạc nhiên: 18 nhà
mới được mở chỉ trong năm 1981, 12 nhà trong năm 1982, và 14 nhà
trong năm 1983. Dòng Thừa Sai cũng được chúc lành qua con số ơn
gọi gia tăng, làm cho hội dòng trở thành một ngoại lệ trong thời
đại ơn gọi các dòng tu nói chung bị giảm sút.
Năm 1986-1989: Dòng Thừa Sai vào được cả những quốc gia trước
kia vốn ngăn cấm các nhà truyền giáo.
Dòng Thừa Sai Bác Ái được phép mở các nhà tại các quốc gia vốn
đóng kín đối với các nhà truyền giáo như Ê-ti-ô-pi, và Nam I-ê-men.
Hội dòng cũng được phép đến Ni-ca-ra-goa, Cu-ba, và Liên Sô là
nơi chủ nghĩa vô thần được nhà nước tích cực cổ võ. Trong trường
hợp của Liên Sô, một trong những kết quả của công cuộc Pê-rét-troi-ka
(Perestroika) của Mi-khai Gô-ba-chốp (Mikhai Gorbachev) là cho
phép Mẹ Tê-rê-xa được mở một nhà ở tại thủ đô Mát-cơ-va.
Tháng 2.1986: Đức Gio-an Phao-lô II đến thăm Can-quít-ta.
Đức Thánh Cha đã đến viếng thăm Mẹ Tê-rê-xa và tận mắt xem công
việc của dòng Thừa Sai Bác Ái.
Ngày 21.5.1988: Một nhà tại Va-ti-can.
Dòng Thừa Sai Bác Ái mở một nhà trú cho những người vô gia cư
ở Rô-ma, ngay tại Va-ti-can. Nhà này được gọi là “Món Quà của
Mẹ Ma-ri-a” để kỷ niệm năm Thánh Mẫu. Nhà trú này có 72 gường,
và hai nhà ăn, một cho những người thường trú và một cho những
người ghé qua. Nhà trú cũng có một phòng khách, một phòng y tế,
một sân hiên đối diện với sảnh đường Đức Phao-lô VI.
Năm 1988-1989: Mẹ Tê-rê-xa phải vào bệnh viện hai lần.
Vì cơn bệnh đau tim, Mẹ Tê-rê-xa phải vào bệnh viện hai lần. Đây
không phải là lần đầu tiên Mẹ đã lao lực quá mức và phải vào bệnh
viện. Ngay cả Đức Thánh Cha cũng xin Mẹ hãy giữ gìn sức khỏe.
Các bác sĩ của Mẹ đã phải lắp đặt một máy kích thích cơ tim hoạt
động và ra lệnh cho Mẹ phải nghỉ ngơi sáu tháng.
Ngày 16.4.1990: Mẹ Tê-rê-xa từ chức bề trên tổng quyền của dòng
Thừa Sai Bác Ái.
Vì lý do sức khỏe là chủ yếu, Mẹ Tê-rê-xa đã từ chức bề trên tổng
quyền dòng Thừa Sai Bác Ái. Được rảnh khỏi các trách vụ, Mẹ có
nhiều thời giờ hơn để đi lại và thăm viếng các nhà của chị em
các nơi.
Tháng 9.1990: Mẹ Tê-rê-xa được yêu cầu ngưng thời gian nghỉ hưu
và được tái đắc cử trong chức vụ bề trên tổng quyền của dòng Thừa
Sai Bác Ái.
Nhận ra thiên khiếu tinh thần cá biệt và tài lãnh đạo hội dòng
của Mẹ Tê-rê-xa, các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái một lần nữa lại
bầu Mẹ vào chức vụ bề trên tổng quyền của dòng, mặc dù Mẹ đã 80
tuổi và bệnh nạn yếu đuối về sức khỏe.
Ngày 1.4.1994: Mẹ Tê-rê-xa đến Việt Nam.
Mẹ cho biết Việt Nam là quốc gia thứ 111 có sự hoạt động của dòng
Thừa Sai Bác Ái. Hai nhà tại Việt Nam là nhà thứ 501 và 502 của
dòng.
Năm 1997: Mẹ Tê-rê-xa qua đời.
Vì lý do sức khỏe, một lần nữa Mẹ Tê-rê-xa không thể tiếp tục
đảm trách công việc bề trên, và nữ tu Ni-ma-la (Nirmala) được
bầu lên thay thế Mẹ. Cuối năm ấy, Mẹ đã từ giã trần gian.
Hết
|