dongcong.net
 
 

Hai đoản khúc suy tư

Suy tư tuần thứ 16 năm A-2014, thấy có giòng chảy thi-ca những bảo rằng:

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,”

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.”

Thấy thế rồi, người lại hát:

“Yêu em vì ta ghét buồn,”

Yêu em vì ta ghét hờn.

Yêu em vì ta khinh khi dối gian,

“Yêu em vì ta chán người,

yêu em vì ta chán đời.
Yêu em vì ta không tin ở trời.”
 

Dù, "dĩ vãng có dầm mưa" cho nhiều, thì người anh đây có yêu em chỉ vì anh những ghét buồn, và/hoặc đã "chán người", "chán đời" hoặc chán ngán đủ mọi thứ vì "không tin ở trời" nữa, cũng rất buồn. 

Những mong rằng: Nước Trời Đạo mình sẽ không chán đời cũng chẳng chán Đạo, nhưng vẫn "ghét buồn", "ghét hờn" và "khinh khi dối gian" để rồi cùng mọi người ở Nước Trời Hội thánh, ta "dìu nhau đi trong ý thơ", không còn "hững hờ", vẫn cứ "gần nhau trong giấc mộng" hay sao đó, cũng rất được.  

Thế đó là tâm tình chân phương/bình dị xin được gửi đến bà con anh chị em cùng tất cả các vị trong họ ngoài làng ở  Nước Trời, rất thánh Hội, hôm nay đây. 

Mai Tá

www.giadinhanphong.com

 

Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 16 mùa Thường niên năm A 20.7.2014

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,”

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 13: 24-43

             Lén bước về, đâu vì nhà thơ dầm mưa dĩ vãng, mặt sầu che. Áo trùng, mây toả, sầu che mặt, lại vẫn là tâm-trạng của nhà Đạo khi nghe truyện dụ-ngôn “người gieo giống”, rất Nước Trời.

            Trình-thuật “người gieo giống” hôm nay, được hai thánh-sử Mác-cô và Mát-thêu diễn-tả để người nghe hiểu về Nước Trời, đầy ý-nghĩa. Mỗi vị kể mỗi cách. Nhưng, cách kể truyện của thánh Mác-cô lại vẫn theo kiểu lật ngược như tư-thế của người nghe truyện. Trong khi đó, thánh Mát-thêu lại đưa vào cuộc sống của người bình-thường đang nghe truyện, cho dễ hơn.

            Thánh Mác-cô thường kể chỉ phân nửa bài dụ-ngôn thôi, nhằm xoá bỏ mọi thành-kiến, hoặc lối đoán mò. Còn, thánh Mát-thêu lại tiến xa qua cuộc sống bình-thường mà người đi Đạo gọi là: niềm tin. Niềm tin đây, là những gì xảy đến với người thường sống ở đời, để rồi lại sẽ kết-thúc một cách tốt-lành/hạnh đạo, như lòng người mong muốn.

            Thánh Mát-thêu sống sau thời đại của thánh Mác-cô rất nhiều năm, nên ngài cũng hiểu ý-định và dụng-đích của việc kể dụ-ngôn, thời đó. Chính vì thế, nên: thánh Mát-thêu không sử-dụng mục-đích cũng như kiểu-cách của người đi trước, nhưng lại uốn-nắn ảnh-hình và cốt truyện hầu tạo dáng vẻ của sự sống không thấy nơi ngôn-ngữ thường-nhật. Dáng-vẻ đây, là âm-thanh, ảnh-hình cùng điệu-nhạc đưa vào đó, có đính-kèm một bí-kíp cho thật đẹp.

            Nét đẹp của sự việc thường-tình ở dụ-ngôn đây, là: loại đất ở nông-trại tiếp-nhận được hạt giống Chúa vãi gieo hàng loạt. Đồng thời, thánh Mát-thêu lại kể về “cỏ dại” chen lấn với lúa tốt, khiến nhà nông cứ băn-khoăn về ảnh-hưởng của nó với lúa tốt tươi, sinh lợi. Hơn nữa, thánh Mát-thêu lại kể thêm về hạt cải tuy bé nhỏ nhưng cho ra nhiều cây lớn. Và, như hạt ngọc nằm trong vỏ trai/sò xấu xí, lì lợm. Nói chung, thánh Mát-thêu sử-dụng truyện kể để cài vào đó tâm-tình lớn lao, cao-đại, tử tế cần phổ biến.

            Qua dụ-ngôn, thánh Mát-thêu đề-cao tính-chất cao cả của người bé nhỏ. Thánh-nhân còn sử-dụng việc Chúa Kitô Phục Sinh như sự chúc lành Chúa đem đến cho những con nguời nhỏ bé, bình thường ở đời. Thánh-nhân còn muốn chỉ cách để ta nhận biết và hiểu rõ rằng có những điều ta cần cảm-kích biết ơn Chúa và Đức Kitô đã làm cho con người, mà họ không biết.

            Dụ-ngôn thánh Mát-thêu kể, là những truyện hay/đẹp bộc-lộ bí-kíp sống đời bình-thường của con người. Bí-kíp đây, là sống bình-thường có Chúa ở cùng, nên rất đẹp. Bởi, Chúa thích thế. Và, Ngài thích mặc-khải những điều lớn lao về cuộc sống cho người bình-thường/bé nhỏ, mà thôi. Gọi bình-thường, nhưng người nhỏ bé vẫn cần phương-án giản-đơn, không cầu kỳ. Và, thánh Mát-thêu khám-phá ra tính thực-tế của mầu nhiệm Nhập-Thể, qua đó Chúa không cần đến thần-học hoặc khoa hùng-biện nào/khác; nhưng Ngài chỉ cần ta sống bình thường, giản-đơn, cũng đạt được.

            Thánh Mát-thêu còn đi xa hơn, bằng cách tự bó buộc mình viết thêm về quà-tặng Chúa ban cho ta, cũng dồi-dào như thế. Thánh-nhân tập-trung vào chuyện hạt giống được gieo trên đất tốt, khi viết dụ-ngôn về đất trồng trọt. Đất trồng trọt, có thể sản-xuất gấp 30, 60 và có khi cả trăm lần vượt quá sự mong-đợi của mọi người. Thánh Mát-thêu không chỉ viết thế, nhưng còn tả về các nhân-đức tàng-ẩn trong ta, khi ta sống cuộc sống biết cảm-kích những điều tốt đẹp Chúa ban cho mình, trong đời.

            Người bé nhỏ trong đời, lại muốn nghe Lời Chúa, cả trong sự việc bé nhỏ, nên đã hiểu. Mọi lời bình thường, đều được Chúa sử-dụng ở Phúc Âm để nói về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được chúc phúc vì đã nghe Lời Chúa, hiểu Lời và còn giữ kín trong lòng, mà thực hiện trong cuộc sống, nữa.

            Người nghe kể hôm nay, được khích-lệ sống tích-cực điều Chúa dạy. Sống tích-cực, có kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi trong Lời Chúa nói, vẫn có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất riêng-tây của thánh Mát-thêu khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, dễ chịu.

            Về cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:

            -Cười, là để học biết chấp-nhận hình-thái ân-huệ của cuộc sống khó có thể kiểm soát;

            -Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi hiểu-biết chính con người mình;

            -Cười, là mỗi ngày sống dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối cùng và mãi mãi với thực tại;

            -Diễu cợt - nực cười, là điều để ta cười vào đó, cho bõ sống;

            -Chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người mình;

            -Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;

            -Cười là niềm cảm-thông bí-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ trong đời;

            -Đứng ở trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp để đổi thay để ăn nói;

            -Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được như thế;

            -Cười, khiến cho con người biết trở thành người đáng yêu;

            -Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về phẩm-cách của mình;

            -Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để không còn mất nhau trong đời;

            -Cười, khiến ta có thể bị người đời coi là hời-hợt, sống ngoài mặt; nhưng

            -Cười, ít ra cũng làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;

            -Cười trong sống đời hằng ngày cảnh-báo để mình sống tốt -lànhvới thực-tế ở đời;

-Cười, giúp tiến về phía trước với sự đồng-thuận vĩnh viễn và có uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì mình từng làm;

            -Cười, là một phần của nghệ-thuật góp mặt vào mọi sự;

-Biết cười thực-sự và cười vang dội là lối sống khiến người người lướt vượt được mọi sự; và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt đi và đem chuyện vui vào với con người, dù đang gay gắt/nóng giận. Cười, còn phản-ánh rằng: con người không còn nghi ngờ những gì mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa. (x. Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)  

            Cười như thế, mới hiểu được ý-nghĩa cuộc sống có Chúa vẫn biết cười vào mọi chuyện. Cười rồi, ta lại về với giòng thơ có khúc đoạn mang dáng vẻ buồn cười, rất đáng cười, mà rằng: 

            “Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,

            Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.

            Run tay ấp nửa bàn chân lạnh lạnh,

            Thương những con đường mưa cuốn đi.”

            (Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)              

            Thương những con đường mưa cuốn đi. Cuốn cả hạt giống tốt tươi lẫn nụ cười, nên mới thế. Thương, là thương cả những người chưa thấm nhuần Lời Vàng Chúa dạy nơi dụ-ngôn “người gieo giống” còn ở mãi trong đầu người hiểu biết Nước Trời sống mãi nơi con người. Suốt mọi thời.

            Lm Kevin O’Shea CSsR

            Mai Tá lược dịch.

 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 16 Thường niên Năm A 20-7-2014

“Yêu em vì ta ghét buồn,”

Yêu em vì ta ghét hờn.

Yêu em vì ta khinh khi dối gian,

“Yêu em vì ta chán người,

yêu em vì ta chán đời.
Yêu em vì ta không tin ở trời.”

 (Lê Hựu Hà – Yêu Em)

 

(Rm 12: 9-13)

Yêu em như thế, phải chăng như thể bảo rằng: đó là tình-yêu người nghệ-sĩ, tức: những người vẫn yêu, nhưng ghét rất nhiều thứ như: buồn đau, giận hờn, dối gian hay gì gì khác?

Có thể, đây cũng là quan-niệm nghe rất quen. Nhưng, nếu bảo rằng: yêu em vìta không tin ở trời”, thì ngay đây xin đề nghị bạn/đề-nghị tôi: ta hãy xét lại và nghe xem nghệ-sĩ có thật lòng nói vậy không? Nói, là nói bằng câu ca/tiếng hát như ở dưới, vẫn bảo rằng: 

“Ta không thèm mái tóc huyền,
Ta không thèm đôi mắt đẹp,
Ta không màng lời khen chê thế gian.
Ta không cần ai hiểu mình,

khi ta ngợi ca ái tình.
Khi ta dìu em đi trong ý thơ.

(Lê Hựu Hà – bđd) 

Tiếc một điều, là: tác-giả bài này, nay đã ra người thiên-cổ, chứ không thì bần-đạo đây và người đi Đạo cùng thời với bần đạo đây, hẳn sẽ tìm vị ấy để hỏi: phải chăng anh còn muốn nói và hát thêm, câu này nữa? 

“Em ơi, anh muốn nói rằng,
sao em còn mải hững hờ.
Khi anh trọn lòng yêu em thiết tha.
Xin em đừng luôn dối lòng,

khi tim làm đôi má hồng.
Cho ta được gần nhau trong giấc mộng.”

(Lê Hựu Hà – bđd

Thôi thì, hỡi bạn và hỡi tôi! Ta nghe thế, tưởng cũng đã đủ. Có nghe thêm, ta chỉ nên nghe tiếng huýt sáo, là loại nhạc-khí ít thấy ở nghệ sĩ, ngoại trừ Elvis Phương vẫn làm thế, mỗi khi hát.

Thôi thì, hát gì thì hát, miễn đừng hát rồi lại yên tâm, yên trí về lời ca ra như thế. Bởi, xem ra, ý của chàng lại khác, có nói gì thì cũng chỉ muốn cô nàng để ý, thôi.

Thôi thì, có yên tâm/yên trí hay yên bề “thánh-thất”: hay gì đi nữa, xin cứ về với Lời Vàng của thánh-nhân hiền-lành để nghe thêm, lời sau đây: 

“Bác ái yêu thương,

không được giả hình giả bộ.

Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 9-13) 

Thật ra thì: yêu thương, bác ái hay “chú/thím ái” gì cũng thế. Yêu-thương, là yêu và thương mọi người, rất như nhau. Chứ, ai lại cứ hát mãi mỗi câu ca: “yêu em vì ta ghét” này ghét nọ, cho bõ ghét!

Yêu em, hay yêu con người của em/’chứ không phải yêu con em của người, còn là và sẽ là tình thương-yêu/bác ái (chứ không phải “chú/thím ái”) mà lời Vàng ở trên cứ dặn mãi.

Yêu-thương Em hay thương-yêu Anh, phải là thứ tình-yêu chân-phương ở mọi nơi và mọi thời. Dù những người cần ta thương và yêu có ra thế nào đi nữa, cũng vẫn yêu. Yêu và thương, theo kiểu nhà Đạo có thế không?

Trả lời câu hỏi hơi “hóc búa” này, cần nhiều thời-gian và tài-liệu để có được câu trả-lời thoả-đáng, thích-hợp hơn. Đang suy-tư chuyện này, bần đạo đây, lại đã nhận được một mẩu điện-thư từ bầu bạn, trong đó kể chuyện truyền-thông đại chúng cũng đã phổ-biến theo dạng phỏng-vấn đấng-bậc phụ-trách thánh-bộ nọ ở Giáo-triều, về nhiều vấn đề.

Duy, có vấn-đề về vai trò của phụ nữ trong Giáo-triều, thì câu hỏi và trả lời giữa nhà báo và đại-diện giáo-triều, là Hồng Y Walter Kasper ở Rôma, lại đã đề-cập nhiều chuyện và nhiều thứ về phụ nữ, như thế này:  

Nhà báo: Về vai-trò và chức-năng của phụ nữ trong Hội-thánh, Đức Phanxicô có nói: Hội thánh cần có một nền thần-học tốt-lành hơn về nữ phụ. Trong khi đó, thì thưa Hồng y, Hồng-y lại bảo: ta cần tìm cung-cách nào đó để phụ-nữ có được vai-trò lãnh-đạo trong hệ-cấp giáo-triều ở Vaticăng. Câu hỏi của tôi là: Hồng-y thấy điều đó có xảy ra vào bất cứ lúc nào rất sớm không? Và việc ấy thực-hiện cách nào cho xuôi chảy, đây?” 

Hồng-y Kasper: Riêng tôi, tôi không ngả vào trường-phái chủ-trương phong-chức cho phụ nữ! Tuy nhiên, nhiều thánh-bộ và văn-phòng thuộc Giáo-triều không đòi-hỏi phải có chức thánh mới được làm thế. Về kinh-tế chẳng hạn, nhiều phụ-nữ rất chuyên hoặc rất lành-nghề đã và đang thực-thi công-tác này, thật trổi vượt. Như thánh-bộ giáo-dân chẳng hạn, đâu cần phải có chức-thánh mới phụ-trách được thánh-bộ này. Bởi, phân nửa giáo-dân nay là nữ-giới rồi còn gì. Có văn-phòng phụ-trách các vấn-đề của giáo-dân mà chưa thấy có nữ-phụ nào đóng vai-trò lãnh-đạo trong đó hết. Đấy mới là vấn-đề. Còn, Hội-đồng Giáo-hoàng về Gia-đình nữa. Có gia-đình nào lại không có phụ-nữ đâu, tại sao thế?

Riêng tôi, lại đã có kinh-nghiệm từng-trải từ hồi còn làm Chủ-quản giáo-phận, tôi đã chỉ-định một chị giáo-dân làm cố-vấn cho Hội đồng Giám-mục của tôi. Từ ngày đó, toàn bộ chức-sắc tại đây đều sống trong bầu-khí rất đối-thoại. Và, chị giáo-dân này, là thành-viên rất quả-cảm. Nói thật với ông: phụ-nữ đem lại rất nhiều điều phong-phú về tầm-nhìn và kinh-nghiệm mà nam-giới ta còn khiếm-khuyết. Nếu Giáo-triều Vatican có được nhiều phụ-nữ hợp-tác làm việc ở trong đó, chắc chắn sẽ hữu-hiệu không ít. 

Lấy Thánh bộ Giáo lý Đức tin làm ví-dụ, thì: Thánh-bộ này, tuy không cần các vị nào có chức-thánh để dẫn dắt hết; nhưng, Thánh-bộ lại gồm một nhóm các nhà thần-học làm cố-vấn. Các vị này đâu có quyết-định được điều gì, chỉ làm tư vấn thôi nhưng lại vẫn cho ý-kiến, cũng đâu sao. Ngày nay, rất nhiều phụ-nữ trong các thánh-bộ từng là giáo-sư thần-học. Thế thì, tại sao ta không đưa tiếng nói của các giáo-dân nữ vào trong đó. Tôi nghĩ, ta cần phải làm thứ gì đó về chuyện này. Tôi đề-nghị ta nên thay-đổi bầu-khí lâu nay vẫn quá đặt nặng tính giáo-sĩ-trị.  

Nhà báo: Thế, Hồng-y nghĩ thế nào về bầu-khí hiện giờ ở giáo-triều Vatican ? Phải chăng đang có sự-kiện khá là căng thẳng, hồi hộp hoặc đợi ai đó đi bước trước, để đổi thay cho sớm sủa? Hoặc, đang có thứ gì đó mang nghĩa cường-điệu về triều-đại Giáo-hoàng hiện-tại, tức: có những đồn-đoán này khác, về nhiều thứ dù không về cuộc sống bên trong Giáo-hội?   

Hồng y Kasper: Vatican là hệ-cấp giáo-triều gồm nhiều người, nhiều vị khác lập-trường, chánh-kiến và tâm-tính. Ở đây, hiện có nhiều vị như chúng ta, vẫn nghiêng về với Đức Phanxicô, bởi ta đều thấy là: vào cuối triều-đại giáo-hoàng thời trước, đã có những sự-kiện được gọi là Vatileaks -mà ta có thể gọi đó là thứ: “rò rỉ tin tức” xuất tự bên trong Giáo-triều -- như thế tức: có cái gì đó không ổn hoặc không chạy việc cho lắm.

Nhiều vị muốn chỉnh-sửa, đổi-thay một đôi điều. Và Đức Giáo-hoàng mình hiện cũng muốn thế. Nhưng, đương nhiên là chuyện đổi-thay không dễ thực-hiện nhanh chóng được. Giáo-triều La-Mã, là guồng máy cũ kỹ vẫn còn hiện-hữu như thể-chế cũ ở châu Âu. Một thể-chế cổ xưa như thế, vẫn có đường-lối hoạt-động riêng của mình, nên không dễ gì mà đổi-thay chỉ trong “ngày một ngày hai”, được. Vẫn có những lực chống đi ngược lại khuynh-hướng đòi đổi-thay. Và, khi ta muốn thay-đổi điều gì, thì: bao giờ cũng có tranh-luận, có người phò, có người chống, đó là điều cũng đã xảy ra với Giáo triều Vatican , vào lúc này.

Riêng tôi, vẫn có cảm giác rằng Đức Phanxicô có quyết-tâm thực-hiện một vài đổi-thay. Ngài đã làm một chuyện khá ư là quan trọng, ra như thế. Và tôi nghĩ, có điều là ta đã đề ra một đìều mà không quay ngược chiều lại được. Đức Phanxicô đã thực-hiện đổi-thay trong địa hạt kinh-tế/tài chánh chẳng hạn. Ngài muốn Giáo hội phải có một cấu-trúc mang tính nghị-trình kiểu thượng-hội-đồng, nhiều hơn. Ngài muốn giáo hội sở tại được chú-tâm một cách nghiêm-chỉnh hơn, không phải theo nghĩa ta chối bỏ tính đầu đàn đầy ưu-việt của Giáo-hội toàn-cầu.

Cấu-trúc đầu đàn/ưu-việt và nghị-trình/thượng-đỉnh không đối đầu kình chống nhau, nhưng bổ-túc cho nhau. Và, Đức Phanxicô vẫn muốn thế. Ta đang có không chỉ một nghị-trình thượng-đỉnh về hôn-nhân và gia-đình mà thôi, nhưng đang ngang qua tiến-trình  thượng-đỉnh rất nghị-trình. Giữa hai buổi họp thượng-đỉnh, năm nay và năm tới, ngài trở về lại với giáo-hội sở-tại để điều này được bàn-luận theo cấp độ giáo-xứ.

Thật sự, thì ngài muốn có các tiếng nói của kẻ-tin. Đương nhiên là, những đổi-thay như thế chắc chắn phải gặp một vài đối-kháng, nhưng dù thế vẫn có rất nhiều ủng-hộ những chuyện như thế. Thành thử, Đức Phanxicô rất quyết tâm tiến tới. Cứ cho ngài vài năm thôi, ngài sẽ làm đôi điều rất đáng kể.

Nhà báo: Đức Giáo chủ nay đã 77 tuổi đời. Có sự thể là các vị khác cũng sẽ lãnh trọng trách thực-hiện công-cuộc cải-tổ ngài đề ra đồng thời lại cũng có sự trì-trệ như Hồng-y vừa mô-tả, vậy thì có chăng viễn-ảnh thành-công nào không?

Hồng y Kasper: Đức Gioan 23 khi trước chỉ tại chức có 5 năm thôi và ngài đã thực-hiện nhiều đổi-thay. Với Đức Phaolô đệ Lục cũng thế, không có chuyện quay ngược đầu trở về chốn cũ. Và Đức Phanxicô không thể làm việc gì một mình được. Ngài suy-nghĩ theo phạm-trù của một tiến-trình diễn biến về phía trước. Ngài muốn khởi xự một tiến-trình vốn dĩ sẽ được tiếp-tục cả sau triều-đại của ngài. Theo tôi, ngài sẽ có dịp đề-bạt 40% các hồng-y và các ngài sẽ là những người bầu giáo-hoàng trong tương lai. Theo cách đó, ngài có khả-năng thực-hiện một cơ-mật-nghị mới, thôi.

Đằng khác, dĩ nhiên là ta vẫn có Chúa Thánh-Linh hiện diện với ta nữa. Tôi sẽ không xem xét vấn-đề này chỉ ở lãnh-vực cơ-cấu mà thôi. Như ta thấy đó, cuộc bầu cử Đức Phanxicô gây ngạc-nhiên không ít cho chúng ta và cả các hồng-y thuộc cơ-mật-viện cũng thế. Đức Giáo hoàng nay tạo sự ngạc-nhiên mỗi ngày. Ở cơ-mật-viện hôm ấy, có cảm thấy là Chúa Thánh Linh đang hoạt-động. Nên, tôi tin nhiều vào thực-tại, vào dân Chúa trong hiện tại.

Tuy nhiên, Đức Phanxicô được quần chúng mến mộ rất nhiều, đây không chỉ là cơn bốc đồng rồi thôi. Nhiều vị mục tử ở Rôma có nói với tôi rằng năm ngoái và năm nay đã thấy nhiều người quay về lại với toà giải-tội vào mùa Chay, đó là những người lâu nay không đi xưng tội như trước. Giả như, có những người lâu nay không xưng tội mà nay bắt đầu về lại, thì đó không còn là chuyện thổi phồng, cường-điều. Nhưng, là quyết-định riêng tư, rất sâu sắc. Và các vị mục tử có nói rằng: những người trở lại với toà cáo giải như thế là vì đường-lối của vị đương kim giáo-hoàng đã nói lên tính-cách rất thực của lòng xót thương. Thành thử, theo tôi thì thực-tế đời người vẫn đang tiến về trước, rất sâu sắc”. (xem Matthew Boudway & Grant Gallicho, Merciful God, Merciful Church , An interview with Cardinal Walter Kasper 7/5/2014 lúc 2.55pm).

Nhà báo hỏi thì vẫn hỏi. Người trả lời vẫn trả lời rất bài bản, đúng sách vở. Nhưng thực tế ở đời, lại có những chuyện cũng khá lạ và khó trả lời như truyển kể xem-ra-có-vẻ-hư-cấu ở bên dưới. Nhưng biết đâu lại là chuyện thật, ở đời. Tuy nhiên, trước khi đi vào truyện kể được trích-dẫn, bầy tôi đây vẫn xin quý vị ngàn lần thứ lỗi cho nếu mang tội thất-kính các nữ-phụ ở trong đời, như sau: 

“Trong tiếng Việt, hầu như không có thuật ngữ “Sợ Vợ” , mặc dù  xã hội của ta hay người không thiếu những ngưới đàn bà coi chồng như chúa tể trong gia đình. Ấy vậy, mà cái thuật-ngữ “Sợ Vợ”, từ ngàn xưa, đã trở thành phổ-biến, coi như một trong những thuộc-tính quan-trọng của đàn ông. Từ “Sợ Vợ” gợi lên một hình-ảnh đáng yêu, dí dỏm, thơ mộng và...hiền triết.

Socrates là một triết-gia lớn của nhân-loại nhưng ông cũng là ngưòi sợ vợ. Câu hỏi nổi-tiếng của ông, từ hơn hai ngàn năm nay đã được giới mày râu nhâm nhi một cách thú vị.

-Bạn hãy lấy vợ đi, vì bề nào cũng có lợi. Nếu lấy được một người vợ hiền, thì bạn là một người đàn ông hạnh-phúc; còn, nếu lấy phải một bà chằng, thì bạn sẽ thành một triết-gia.

Như thế, lấy vợ thật là tuyệt-diệu.

Bạn tôi, có rất nhiều người thuộc trường phái ”Sợ Vợ”. Có người mới lấy vợ về đã sợ, có người sợ dài dài trong suốt vài chục năm chung sống. Phó thường dân cũng “sợ vợ” mà người có chức-quyền cũng “sợ vợ”. Người ít học lẫn các bậc trương-phu trí-thức đều thuộc lòng câu “nhất vợ nhì trời”. Chẳng hạn như, anh bạn bác-sĩ của tôi lấy vợ đã ngoài hai mươi năm. Bữa kia, hai ông bà rủ nhau đi chợ mua sắm các thứ để kỷ-niệm ngày cưới. Người vợ bảo:

-Anh giữ tiền nhé. Em mua cái gì thì anh chi cái nấy.

Người chồng cất tiền vào túi áo. Nhưng khi hai người đến đầu chợ, thì bà vợ lại cằn nhằn:

-Đến chỗ đông người mà sao anh lớ ngớ như một thằng ngố vậy? Anh không biết bọn móc túi đầy trong chợ à?

-Đừng lo, người chồng nói, chúng nó không làm gì được anh đâu.

Bà vợ ngắm-nghiá đức ông chồng một hồi rồi quyết định:

-Đưa hết tiền đây. Anh giữ tiền, mất như chơi.

Người chồng vâng lời, đưa tiền cho vợ.Bà ta bỏ tiền vô ví, chắc trong tay.

Hai người bước vô chợ, đi vòng vòng ngắm nghía hàng hoá một hồi, cuối cùng bà vợ quyết-định mua một bộ đầm 130 ngàn. Nhưng trước khi móc ví trả tiền thì mới hay là ví đã bị rạch và gói bạc biến mất. Anh chồng nhỏ nhẹ nói:

-Phải chi lúc nãy em để anh giữ tiền thì đâu đến nỗi.

Bất ngờ, bà vợ túm lấy cổ áo chồng, gầm lên:

-Đồ ngu! Tại sao tôi bảo anh đưa tiền cho tôi giữ, mà anh cũng đưa? Anh phải biết ngăn-cản tôi chớ. Thế mới gọi là đàn ông chớ, đàn ông gì mà vợ bảo sao nghe vậy để đến nỗi mất hết tiền. Lỗi của anh sờ sờ như thế mà còn đổ cho người ta. Đàn ông gì mà hèn quá vậy!

Bị nắm cổ ngay giữa chợ, anh chồng mắc cở quá, năn nỉ:

-Anh xin lỗi. Buông anh ra đi. Đừng làm thế ở chỗ đông người.

Nhân vật thứ hai là một người tướng tá đạo-mạo. Buổi trưa nóng nực, tình cờ tôi gặp anh ta trong một quán nước. Thấy cổ tay anh ta bị những vết xướt chằng chịt như có ai lấy dao lam cứa hàng trăm nhát trên đó, tôi bảo:

-Ủa, tay của ông sao vậy?

Anh bạn vốn là một nhà giáo. Trước khi trả lời câu hỏi, anh ngó lui ngó tới xem có học trò ngồi chung quanh không, rồi rỉ tai tôi:

-Vợ nó ngắt.

-Trời đất! Ngắt mấy ngày mà nát bấy cái cổ tay vậy?

-Có một đêm thôi. Đêm kinh hoàng. Mất ngủ.

-Sao ông không kháng cự?

-Vì mình có lỗi.

-Lỗi gì?

-Bị bắt quả tang đi chơi với bồ nhí.

-Thì cứ xin lỗi và hứa không quan-hệ lăng nhăng nữa là được rồi. Việc gì mà phải nằm im chịu trận âm thầm trong đêm như thế?

Anh bạn giáo viên thở dài, xổ cái ống tay áo xuống, cái măng-sét để che những mÓng vuốt đàn bà, đoạn phân-trần:

-Nhà chật. Con cái nằm ngủ ngay bên cạnh. Vợ chồng cãi nhau sợ chúng nghe, chúng nó buồn, còn mình làm cha cũng sợ mất uy-tín, vì thế mà cả bà vợ lẫn mình không ai nói một tiếng. Cuộc trừng-phạt vì thế đã diễn ra quằn-quại trong đêm tối, nhức nhối trong âm-thầm.

Nhân vật thứ ba, là một anh nhà văn. Ngày nọ tôi đến nhà anh ta chơi, vừa bước vào nhà đã nghe tiếng cãi vã phía trên cầu thang. Tôi vừa định lên xem chuyện gì thì thấy anh nhà văn hối-hả chạy xuống, phía sau là một cô vợ trẻ cầm con dao thái thịt đuổi theo bén gót. Để bạn khỏi ngượng tôi nép vào trong gầm cầu thang, trốn. Cô vợ vung dao chém một nhát, anh nhà văn né kịp, con dao Đồ Long chém vô tường nhá lửa. Cô vợ trẻ phóng lưỡi dao về phía đức ông chồng nhưng hụt. Một trận quyền cước tiếp theo sau. Anh bạn nhà văn nép vô xó chịu đòn, lưng áo bị xé toạc, hằn in dấu cán chổi của trận đòn ngày hôm trước.

Lúc ấy, tôi bèn xuất-hiện can ngăn, đỡ đòn cho bạn. Bà vợ trẻ cúi xuống nhặt con dao, dứ dứ trước mặt chồng mấy cái rồi bỏ đi. Tôi dìu anh bạn lại ngồi nơi cầu thang, hỏi vì sao bị cô vợ bé đánh quá xá vậy, thì đáp:

-Tối hôm qua mình về về với bà cả và mấy đứa nhỏ.

-Thế là Bà Hai có đồng ý không?

-Mình có xin phép nghiêm chỉnh.

-Vậy tại sao lại bị đánh?

Anh bạn kéo chiếc khăn tay ra hỉ mũi sồn sột, sau đó ho khan lên mấy tiếng rồi trả lời:

-Đó là vì lúc ra đi thì mình khoẻ mạnh, mà khi trở về thì mình bị cảm.

Bà Hai hỏi:

-Anh về nhà làm gì mà bị mất sức dữ vậy?

Nhưng, của đáng tội, mình có làm gì nhiều đâu mà mất sức với mất lực cơ chứ...

Nói đến đó, anh bạn bèn hắt xì hơi mấy cái liên-tiếp, rồi phân-trần:

-Ông nghĩ coi, cảm cúm có khi là chuyện trái gió trở trời, đằng này... giời ạ! Bạn biết đấy.

Trên đây, là ba mẩu chuyện về “hãi sợ” với ba nhân-vật rất khác nhau. Ba tình-huống hoàn toàn riêng biệt. Bạn nào đọc đến đây chớ vội chê bai họ là những kẻ hèn nhát, nhé. Anh bác sĩ trong chuyện thứ nhất “sợ vợ” chẳng qua vì lòng độ lượng, không muốn hơn thua với đàn bà, thật đáng khen. Anh giáo-viên, trong chuyện thứ hai “sợ vợ” chỉ vì mục đích vô cùng cao cả, là ngại ảnh hưởng xấu đến con cái, thật đáng kính! Còn anh nhà văn, ở câu chuyện thứ ba, thì láu cá hơn. Hắn ta sẵn sàng đưa lưng ra chịu đấm để được ăn sôi bằng cả hai tay...” (truyện kể lại được trích và dẫn từ trang mạng rất vi-tính)

        Thật ra thì, đầu đề của truyện kể, mang chữ “Sợ vợ” cũng không mấy đúng cho lắm. Lẽ ra, phải gọi là “Sợ phụ nữ” mới đậm đà ý-nghĩa hơn. Và, động-từ “Sợ” đây, không là hãi-sợ và sợ sệt bết bát đến là thế, cho bằng chỉ “nể vì”, cốt để tôn-trọng phụ-nữ hơn nam-nhân mình cho nó tiện việc sổ sách.

Đi vào địa hạt thần-học/tu đức mà xem xét, hẳn bạn và tôi, ta cũng thấy được nhiều điều mình phải công-nhận và rồi bái phục. Bái và phục, như nhiều vị vẫn phủ-phục và sùng-bái đấng trên mình.

Và bây giờ, xin đi vào chi-tiết có trích-dẫn rất nghiêm-chỉnh, chứ không hư-cấu nữa. Luận chữ “tâm phục”/“khẩu phục” chứ tuyệt-nhiên không sùng/không bái đấng bậc nữ lưu trong/ngoài Đạo, bần đạo đây cũng bắt gặp nhiều ý-kiến/lập trường rất “ba-phải”, tức ông nói thấy cũng phải, bà nói nghe cũng phải, cả hai ông bà nói đều rất phải phải, cũng rất ư phải lẽ.  

Về vai trò của nữ-phụ trong cộng đồng Hội thánh thời tiên-khởi, vai-trò của các thừa-tác-viên nữ rất trổi trang, dễ nể được các sử-gia trong Đạo rất trân trọng. Dưới đây là một trong các giòng chảy cũng trân-trọng không kém đấng-bậc áo đỏ, đọc như sau: 

“Tôi thiết nghĩ, các thừa-tác-viên đồng-hành với thánh nhân đã thực hiện công cuộc mục vụ rất tốt, nhưng lại không được lòng các tông đồ trụ-cột như thánh nhân và đồng sự của thánh nhân, là các bậc nữ-lưu rất trọng vọng. Các nữ-lưu này, không đủ quyền như các đấng bậc trụ cột ở Giêrusalem như: thánh Phêrô, Giacôbê và thánh Gioan, nên không được phê chuẩn. Thêm vào đó, nhóm của các thánh chỉ gồm thánh Phaolô và các thừa-tác-viên nữ như các chị Phôêbê, Chloê, Priscilla, vv..

Nói tóm lại, điều đó cho thấy các vị này cũng đã làm nhiều điều tốt đẹp không chỉ ở Akaia thôi, mà còn ở La Mã cho cộng đoàn dân Chúa sống tại đây. Thánh Máccô còn nói: “Hãy cứ để họ làm như thế, vì họ đang làm những việc được Chúa khích lệ”. Duy có điều, là: thánh Máccô không đại diện cho tất cả các nhóm Đạo Chúa vừa phát triển, nên đó mới thành chuyện”. (xem Kevin O’Shea, CSsR, Phaolô, vị thánh của mọi thời, nxb Tôn Giáo 2013, tr. 30).

Và, ý-kiến của một linh-mục khác diễn-giải về thân-phận của nữ-phụ qua bài trình thuật thánh Luca viết ở đoạn 7 câu 36 đến đoạn 8 câu 3 về trường-hợp nữ-phụ nọ có động-thái ít thấy ở nhà một Biệt phái tên Simôn, thời Đức Giêsu hoạt động cho Nước Trời: 

“Sự thật thì, nữ-phụ ở trình-thuật này xử sự rất thật tình hối hận và tha-thiết, nên có được kết quả là Lòng Mến từ Đấng có quyền tha thứ. Ngài thứ tha, nhưng không phô-trương uy-quyền Cha ban cho. Sự hối cải và niềm tin nơi nữ-phụ này đã đem lại cho chị ơn tha thứ. Thứ tha, là hành-động diễn-tả tình thương-yêu dâng trào. Yêu thương và lỗi phạm, là hai phạm-trù không thể có chung một đất đứng. Cả hai, không thể ở chung nơi một người. Vì thế nên, nữ-phụ hôm ấy bị tiếng là lăng-loàn, nhưng thực sự chị là người thương mến Chúa rất mực, nên vì thế không thể coi chị là người bê tha, rất đáng tôi được.

Xã-hội hôm nay, có nhiều người làm quấy dù chỉ một lần trong đời, nhưng vẫn bị chụp mũ, kết án suốt quãng đời còn lại của chính họ...Thiên-Chúa không xử-sự với con người giống như ta vẫn xử-sự. Ngài xử với con người theo tình-thế của chính họ. Ở đây. Bây giờ. Quá khứ của con người, không quan-trọng đối với Chúa. Có quan-trọng chăng, chỉ mỗi điều, là: nay ta sống thế nào? Xử-sự ra sao? Có tương-quan tốt với Chúa và với con người không?” (xem Lm Richard Leonard, sj Suy-niệm Lời Ngài, Chúa Nhật thứ 11 Mùa Thường niên năm B 16.6.2013).

            Thiết tưởng, hôm nay, cũng chẳng cần bàn-luận hoặc cãi-vã gì cho mệt “đền thờ Chúa Thánh Thần”. Có bàn và cãi hay không thì ai ai cũng đều công nhận  vai-trò và chức năng của nữ-phụ ở đời, cả trong Đạo. Gọi các chị là nữ thừa-tác-viên đắc lực hoặc các thánh như Phaolô hồi đó vẫn gọi, cũng đều được.

            Điều cần thiết, là: gọi sao thì gọi. Gọi xong rồi, cần trân-trọng, yêu thương và hành-xử như các vị ấy trong thời hiện-đại của Hội-thánh là ta, hôm nay.

            Nói nhiều và phiếm bấy nhiêu thôi, lại là động-thái rất nên làm, ngay bây giờ. Hay nhất, có lẽ là: ta cứ đồng tâm quyết chí như thế, rồi cùng với bá quan trong họ/ngoài làng cứ cảm-kích hát lên lời ca rất “hoành-tráng”, rằng:    

“Ta không thèm mái tóc huyền,

ta không thèm đôi mắt đẹp
Ta không màng lời khen chê thế gian.
Ta không cần ai hiểu mình,

khi ta ngợi ca ái tình,
khi ta dìu em đi trong ý thơ.
Em ơi, anh muốn nói rằng,

sao em còn mải hững hờ.
Khi anh trọn lòng yêu em thiết tha.
Xin em đừng luôn dối lòng,

khi tim làm đôi má hồng.
Cho ta được gần nhau trong giấc mộng.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Thật đúng thế. Hãy cứ “không màng khen chê thế gian” và xin mãi một điều trong đời giống như câu: “Cho ta được gần nhau trong giấc mộng”. Chính đó, là “giấc mộng lớn” trong đời. Của nhiều người. 

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng có giấc mộng
rất tương tự.
Ngay trong đời.  

 

Suy Niệm Chúa Nhật 16 Thường niên Năm A 17.07.2011

”Có thể ta không yêu, để gần nhau mãi mãi.”
“Vì không thể tồn tại, điều gian dối yên lành.”

(dẫn từ thơ Hoa Sữa)

Mt. 13: 24-43

Có thể vì không yêu, nên kẻ lạ mới đặt điều gian dối, yên lành. Những cỏ dại. Có thể vì nói yêu, nhưng lại không quan tâm đến điều Chúa dạy qua dụ ngôn cỏ dại, thánh nhân ghi lại hôm nay.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay ghi, là ghi lại truyện kể về cỏ dại mà hầu hết dân con nhà Đạo đều nghe biết. Nhà nông mình, chỉ gieo giống tốt ở ruộng vườn. Nhưng, cỏ dại vẫn xuất hiện nơi đó tức là sao? Là vì, cỏ dại gây hại cho lúa tốt nên nhà nông mình muốn bứt đi. Ngay tức thì. Thành thử, theo sự khôn ngoan Chúa dạy, hãy cứ để đó đến mùa gặt, rồi mới tính.

Cứ theo chú giải kinh thánh, thì ruộng vườn đây là thế giới. Lúa tốt đây, là dân con Nước Trời. Cỏ dại này, là người có tâm địa xấu, sống quanh ta. Kẻ thù đó, là ác thần/sự dữ rất đáng gờm. Và, vụ mùa nói đây, là tận thế. Người gặt, là thiên sứ nhà Trời. Tựu trung, ý nghĩa của tín thư trình thuật hôm nay, cũng giản đơn, dễ hiểu. Dễ, ở điểm: dù sao, hãy nhẫn nại chịu đựng những mâu thuẫn trong đời.

Ở một dụ ngôn khác, Chúa kể về hạt cải, là để bổ nghĩa cho tín thư hôm nay: niềm tin ta có dù nhỏ bằng hạt cải, vẫn lớn mạnh. Ở nơi đó, chim trời sẽ tạo chỗ làm tổ. Bởi thế nên, người đọc Tin Mừng chớ coi thường vật thể dù nhỏ bé, vẫn có thể làm được chuyện lớn, rất đẹp. Men trong bột cũng thế, tuy rất nhỏ nhưng vẫn làm nên cơm bánh nuôi ăn rất nhiều người.

Đức nhẫn nại nói ở đây, là cung cách giúp ta chung sống với các mâu thuẫn trong đời. Nhẫn nại, không chỉ là đặc tính biết chờ đợi những gì sắp đạt tới. Mà, còn là khó khăn lớn mọi người vẫn gặp ở đời, khi mọi việc cứ lê thê, chậm trễ. Kéo dài. Hạt lúa giống cũng thế, vẫn phải đi vào lòng đất, rồi từ từ chết đi, trước khi biến thành vụ gặt, thật lý tưởng. Người mẹ trong gia đình cũng thế. Bà vẫn phải cưu mang bào thai các con những chín tháng mười ngày. Trải qua hết niềm đau này đến nỗi chán chường khác. Đôi lúc rất nghiệt ngã. Cho đến khi mẹ tròn con vuông, niềm vui của con mang lại mới khuây khoả.

Quả thật rất phải. Nhẫn nại, là tiến trình đầy khổ ải mọi người cần học hỏi. Ở mọi nơi. Từ nhà đến sở làm. Trang trại. Rất chậm. Không có được tính nhẫn nại, người người chẳng thể nào gặt hái được mọi chuyện, trong phút chốc. Không nhẫn nại, con dân của Chúa cũng không sao đạt thành quả mình trông ngóng. Bởi thế nên, khi Đức Giêsu nhìn lên cây vả không cho hoa trái Ngài khuyên đồ đệ Ngài hãy đào đất chung quanh gốc, đổ thêm phân bón vào đó, chắc chắn ba năm sau hy vọng sẽ đạt thành tích, rất đẹp.

Đây cũng thế. Không thể coi thường những ai lần đầu phạm lỗi. Vì có coi thường cả trăm lần cũng vẫn thế. Bởi, rồi ra họ cũng bắt chộp được tín thư mình đưa ra, ngõ hầu đạt kết quả mình mong muốn. Thế nên, hãy nhẫn nại mà hy vọng, dù thành quả không phải lúc nào cũng trăm phần trăm vượt thành tích. Và, mọi chuyện còn tuỳ người hợp tác. Tùy thời gian kéo dài hy vọng. Tuỳ đức nhẫn nại của mình, mà thôi.

Nơi cuộc sống con người cũng thế, cỏ dại phiền hà, bức bách vẫn xuất hiện quanh ta. Có khi, còn mọc nhanh và mọc nhiều hơn ta tưởng. Nhanh và nhiều, là bởi với người đời, cỏ dại là biểu tượng của đặc trưng vô dụng, vẫn cần đến đất thịt để sống sót. Nó làm suy giảm ý chí phấn đấu của người thường mà tiến triển. Nó là như thế. Là, tình huống đời người vẫn thiếu nhân công, nhưng dư thừa người chơi không, vô tích sự. Mặc dù thế, cũng đừng nên loại bỏ họ. Bởi, đức nhẫn nại sẽ đem đến cho ta nhiều điều lợi mà tính bộp chộp/nóng nảy, không thể cho.

Thế giới cuộc đời do Chúa tạo dựng, cũng như thế. Rất nhiều hạn chế. Sân khấu cuộc đời đầy hạn chế, là để giúp ta thực hành, phát triển. Là, chốn phát sinh ra cơ hội, để rồi, lúc này hay khi khác, vẫn chẳng khi nào bị trở ngại hoặc bị cất đi. Bởi thế nên, dù đi vào với thế giới ta có gặp đủ mọi tệ hại, thiếu thốn, Chúa luôn mời gọi ta sống đích thực cuộc đời, với thế giới. Sống, là sống ngang qua mọi cơ hội. Cả những cơ hội ta được Chúa giúp sức mà đương đầu với thử thách, qua mọi cơ hội. Chúa giúp, không có nghĩa là Ngài cất bỏ đi mọi thử thách; hoặc, ban mọi nỗi vui trong đời. Biết được như thế, cũng đừng nên xin Chúa cất bỏ đi cho ta những kinh nghiệm nào ghi đậm thử thách.

Thử thách, là cơ hội xảy đến lúc con người chỉ muốn khước từ lời mọi gọi của Chúa. Thử thách bao gồm cả những nguy cơ kích thích ta sử dụng tự do, không đúng cách. Thử thách, có khi mang dáng dấp của “trò” cá độ luôn đi kèm cuộc sống. Thử thách, cũng có thể là những điều kỳ quặc khiến ta không thể làm lơ hoặc bỏ đi. Nhưng, nó vẫn theo chân ta đến cuối cuộc đời, kịp đến khi ta trở nên mù quáng không nhận ra sự hiện diện của nó, mới thôi.

Cả khi ta đụng trận thử thách rất kỳ quặc, làm mất đi cơ hội giải quyết cách tốt đẹp, thì lúc đó Chúa sẽ làm ta tỉnh thức để rồi đưa ta trở về đường ngay nẻo chính, để tự mình xử trí. Ta được mời gọi sống đích đáng, không bị mọi tiêu cực ở đời gây phiền toái. Ta được gọi mời nói tiếng Xin Vâng với Chúa. Xin vâng, là lời đáp trả sống trong thế giới rất nhiều cơ hội để nghe biết và vui thích. Và, Chúa sẽ vui thích khi ta nói được tiếng “Xin Vâng” bất chợt ấy.

Cũng có trường hợp, Chúa đích thân can thiệp trợ giúp để mọi việc trở nên dễ chịu với ta hơn. Cũng có thể, Chúa sẽ gửi người nào đó đến với ta, giúp ta sống nhẫn nại. Kiên định. Và tích cực. Ngài luôn ở bên ta, và với ta. Ngài chấp nhận nơi ta, lời thề hứa sẽ sống bất bạo lực. Không nổi nóng. Với nhân loại. Với thế giới hiện hình đủ mặt xấu/tốt. Cũng có thể, ta phải xử sự giống như thế giới ngoài đời, để rồi chung cuộc, sẽ đạt điều Chúa muốn.

Thần học gia Yves Congar từng viết: “Thập giá là điều kiện để ta làm việc. Chính Chúa hoạt động cả ở những nơi, mà đối với ta, giống như là thập giá. Có sống điều kiện giống như thế, cuộc sống của ta mới đạt chiều sâu, và chân thật. Chỉ khi nào con người chấp nhận khổ đau về những xác tín mình tự tạo, lúc ấy mới đạt được sức mạnh và phẩm chất của sự chối bỏ. Và cũng từ lúc ấy, quyền hạn của ta mới được nghe biết và kính trọng.”

Trong bầu khí hân hoan đầy xác tín như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn dang dở, rằng:

“Có thể ta đi tìm,

một điều không thể có.

Đó là lúc nhánh cỏ,

mọc đốm rễ nghi ngờ.

Nhánh liễu soi mặt hồ,

Mới hay không phẳng lặng.

Có muôn điều cay đắng,

che giấu dưới ngọt ngào.”

(Hoa Sữa – Có Thể Và Không Thể)

Những gì, người người có thể và không thể, vẫn là “nhánh cỏ”. Nhành liễu. Hay mặt hồ. Thực ra, tất cả đều là cơ hội của thử thách. Gian truân. Ở đời người. Có nhẫn nại chịu đựng những gian truân ấy, người người mới phát hiện được vị ngọt, nằm ở dưới.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch.

 

Chuyện Phiếm Chúa Nhật Thứ 16 Thuờng Niên Năm A 17.07.2011

“Đừng trách người ơi, tội thân em!”
                     “làm sao bắt con tim vâng lời,

                    làm khổ đời nhau, gì vui đâu,

                  một khi thế gian này điên đảo.”

(Lê Hựu Hà – Đừng Trách Người Ơi)

( 1P 4: 12-14)

            Đi vào đời, đôi lúc bần đạo cũng nghĩ như thế. Tức, không dông dài kể lể những chuyện trách móc, “tội thân em”. Cả chuyện “làm khổ đời nhau, (có) gì vui đâu”? Bởi, “một khi thế gian này (đã) điên đảo”, thì chuyện trách và móc chỉ lao xao. Ồn ào. Nhiều lý sự. Thứ lý sự, dẫn đến cãi tranh/biện luận để rồi tối tối ngồi nghĩ lại, thấy mình cũng hơi quá. Quá trớn. Quá lời. Và, quá đáng chăng?

            Hôm nay, nhớ lại bài hát của nghệ sĩ nhà họ Lê đã bao gồm nhiều ca từ làm ta suy nghĩ:

                  “Có những điều mà con tim,

Vì say đắm hóa ra yếu mềm

Để bây giờ dù thương đau

Đành im tiếng ...”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 

            Những điều khiến con tim hoá “ra yếu mềm”? Phải chăng vì: say đắm? Để rồi đành im hơi, lặng tiếng? Phải chăng, nghệ sĩ mình cũng có nỗi sầu riêng bóng, nên mới nhủ:

 

 “Nỗi đau này, nào riêng ai

Tình kia đã khát khao tháng ngày

Để bây giờ nhìn ngoảnh lại

Chẳng ai còn đây…”

(Lệ Hựu Hà – bđd)

 

            À thì ra, những sự và việc khiến người/khiến mình “nhìn ngoảnh lại” thấy “chẳng ai còn đây”! Chẳng còn ai” và “chẳng aicòn…”, phải chăng là đoạn đường dài đời đi Đạo, người cũng thấy ít hăng say tỏ bày nỗi bất đồng với Hội (rất) thánh trên cao tít, ở Giáo triều? Hoặc, các “Đấng” nay bị chiếu cố. Tố khổ, thế cũng tội!?

            Quả là, ở với đời tưởng chừng chiêm bao, vẫn nhiều “cay đắng lẫn ngọt ngào”, “con tim dại khờ (cứ) nung nấu!” Những tim con hôm nay không chắc đã dại khờ, nhưng vẫn nung nấu một tình thơ, người đều ghi tạc:

 

                                    “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách:

đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em.

Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu,

anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện,

anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.”

 (1P 4: 12-13)

Nghe thánh nhân chịu nhiều chê trách/tố khổ, phải chăng đó cũng là thân phận của đấng bậc ở trên cao, vẫn được gọi là Đầy-Tớ-của-các-đầy-tớ-Chúa? Phải chăng đó còn là ý nghĩa của câu hát:

“Đừng hỏi vì sao mình yêu nhau

Nào ai biết đâu mây xanh mầu

Đừng hỏi tại sao mình xa nhau

Làm sao giữ được làn hư ảo.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 

            Nói gần nói xa chẳng qua nói… liền. Nói lập tức. Tức, nói về sự kiện gây khúc mắc xảy đến với giáo phận Toowoomba, ở Úc. Trước nhất, hãy nói về một tin tức như sau:

 

“ĐGM Bill Morris, chủ quản giáo phận Toowoomba có ra một thông báo bảo rằng: ngài phải đệ đơn từ chức là vì sức ép của La Mã từng tạo nghiệt ngã cho giáo phận ở đây...

Bày tỏ về tai tiếng trong các vụ ấu dâm và cung cách giải quyết vấn đề không nghiêm túc, khiến Hội thánh Úc bị tê bại, ĐGM Morris cũng đã làm động tác giống nơi khác, tức: làm gương sáng cho nhiều người. Khi xảy ra các vụ phàn nàn về hành xử của một số linh mục ở Úc đã sai trái, GM Morris rất cương nghị. Ngài là một trong các giám mục đầu tiên ở Úc chấp nhận trách nhiệm pháp lý về các “xách nhiễu tình dục” trong giáo hội sở tại.

Rõ ràng là, việc cách chức ĐGM Morris tạo nên những mất mát không nhỏ, không chỉ cho cộng đoàn TooWoomba thôi, mà còn gây “mất đoàn kết” trong Hội thánh nữa…” (x. Lm Andrew Hamilton sj, www.eurekastreet.com.au 02/05/2011)

Hai ngày sau, cũng vị giáo sư thần học nổi tiếng Dòng Tên ở Úc, lại có thêm một giòng chảy:

“Việc ĐGM Morris bị áp lực phải hồi hưu tạo nhiều vấn đề, khá khúc mắc. Rất khó giải. Bởi, chứng cứ đưa ra để chống lại ngài và các ước định xuất phát từ đó, không được phổ biến công khai để mọi người biết.

Thư luân lưu ĐGM Morris gửi cộng đoàn giáo phận Toowoomba trước khi ngài về hưu, đề cập đến vấn đề khá bức bách. Trong tư có đoạn viết: “Tôi chưa được đọc bản cáo trạng cũng như thủ tục tố tụng lẽ đáng ra phải được vị Kinh Lược là TGM Charles Chaput trao cho tôi, nên sự việc này không những không giải quyết được gì mà còn chối bỏ quyền pháp định thông thường khả dĩ cho phép tôi có được người bào chữa chính đáng để biện hộ. Đức Giáo Hoàng cũng xác nhận điều ấy khi ngài nói với tôi: “Giáo luật không trù liệu thủ tục pháp lý nào dành cho giám mục được Đấng Kế vị thánh Phêrô đề cử hoặc cách chức, cả.”

Người ngoài cuộc, thường qui chiếu hệ thống pháp lý của Anh để thấy rằng vụ việc kể trên chừng như vẫn thiếu xót thủ tục pháp lý và công lý rất cần; do đó, có thể coi đây như một vụ tai tiếng khác. Dĩ nhiên, hệ thống pháp lý của Hội thánh không dựa trên luật của Anh, trái lại còn đi xa và đi ngược lại. Cũng có thể, hệ thống này đưa ra một bảo đảm về luật pháp mà người ngoại cuộc không nắm bắt, chăng? 

Sự khác biệt giữa hai hệ thống pháp lý trên vẫn khiến cho các quan sát viên Công giáo có thắc mắc: sao Đức Giáo Hoàng lại chối từ một thủ tục pháp lý như thế, cho đúng với cương vị của ngài? Có vị còn nghĩ: có thể mọi người cho là: ở cương vị tối cao của ngài, Đức Giáo Hoàng được miễn không cần theo thủ tục pháp lý thường có, đối với hệ thống pháp luật khác.

Muốn hiểu được quan điểm của Đức Giáo Hoàng, có lẽ cũng nên ngược giòng về với Tin Mừng, để thấy được là vị trí của Đức Giáo Hoàng là dựa trên chức năng của thánh Phêrô đối với 12 Tông đồ, được Chúa chọn. Theo đó, mọi người hiểu là: Đức Giám Mục thành La Mã có quan hệ với các giám mục địa phương cũng tương tự như quan hệ giữa thánh Phêrô và các thánh Tông đồ. Thánh Phêrô là một trong nhóm 12 Tông đồ Chúa, nhưng ngài lại được Chúa chọn làm thủ lãnh các vị ấy. Thánh nhân có trách vụ củng cố anh em đồng môn để chung sống và rao giảng Tin Mừng.

Điểm tương đồng giữa vai trò của Đức Giáo Hoàng và thánh Phêrô đề ra một điều là quyền hạn Đức Giáo Hoàng là quyền riêng của ngài, không cần có sự đồng thuận của các giám mục, khi ngài quyết định việc gì. Qua nhiều thế kỷ, người ta vẫn tìm cách hạn chế quyền của Đức Giáo Hoàng bằng cách đặt quyền hạn ngài dưới quyền của Hoàng Đế và các Hội đồng/Ủy Ban trong Hội thánh, có được sự đồng thuận từ các giám mục. Các hạn chế như thế đã không thành công trong việc đặt nền tảng giảm thiểu tầm mức quan trọng của Đức Kitô trao ban quyền cho thánh Phêrô; và qua đó, cho Đức Giáo Hoàng, để ngài củng cố sự hiệp nhất niềm tin của Hội thánh, trên hoàn vũ.   

Việc ĐGH Bênêđíchtô XVI tuyên bố ngài có quyền bổ nhiệm cũng như cách chức bất cứ giám mục nào dưới trướng, mà không qua thủ tục pháp lý, phản ánh sự việc lâu nay Giáo hội Phương Tây cố bảo vệ quyền tối cao của Đức Giáo Hoàng. Đặc trưng về quyền mà thánh Phêrô có, tức: Đức Giáo Hoàng không lệ thuộc vào luật Hội thánh khi ngài sử dụng quyền tài phán. Quan điểm này, quả cũng cứng như kim cương.

Tuy nhiên, dù Đức Giáo Hoàng có quyền cách chức các giám mục trong các trường hợp có thể, cũng vì ích lợi cho ngài và cho Hội thánh do ngài phục vụ. Làm như thế, là để khuyến khích sự hiệp nhất trong lòng tin. Việc khuyến khích, có gia tăng hoặc giảm bớt quyền bính là tuỳ tâm trạng người Công giáo có tin là ngài sử dụng quyền bính một cách khôn ngoan và có trách nhiệm không.” (x. Lm Andrew Hamilton sj  04/05/2011)

Nên chăng, ta hát thêm lời ca làm nhẹ bớt tình trạng gay go/khốn khó, với nghệ sĩ:

“Xin trả lại từng trăng sao
Từng câu nói yêu thương ban đầu
Mơ đã tàn, mộng đã tan
Chẳng ... nợ ... gì ... nhau.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát, là hát câu “trả lại trăng sao”, “chẳng nợ gì nhau” như thế. Nhưng thực tế, sự việc đâu nào giản đơn. Chí ít, về “hiệp nhất trong niềm tin”, khi sự tin tưởng bị sứt mẻ, như đấng bậc trên còn viết:

“Phản ứng trước việc toà thánh La Mã thúc ép ĐGM Morris về hưu non, các giám mục ở Úc đã hành xử khá đẹp như mọi người trông chờ. Các vị khẳng định: Đức Giáo Hoàng có quyền cách chức giám mục và nói lên cung cách tư riêng và phẩm chất mục vụ của vị ĐGM Morris. Các ngài đã báo cáo tình trạng xảy đến sau việc cách chức và hứa sẽ nêu vấn đề thủ tục pháp lý với Đức Giáo Hoàng.

Chất giọng trong báo cáo cũng đem lại hy vọng là các Giám mục Úc hứa duy trì quan hệ cá nhân với ĐGM Morris vẫn cần thiết hơn ngôn từ qua lại. Tuy nhiên, trên hết mọi sự, điều quan trọng là nên coi xem giáo phận Toowoomba đặt tin tưởng thế nào vào việc quản cai giáo phận. Một điều ai cũng thấy, là: những đổi thay về văn hoá nói chung, đã ảnh hưởng lên thể chế, cả giới cầm quyền trần thế lẫn giáo hội.

Thực tế cho thấy nhà cầm quyền nào cũng dựa vào sự âm thầm tin tưởng của dân chúng nếu việc quản cai vẫn trôi chảy. Thông suốt. Không có được sự tin tưởng, hẳn là sẽ chẳng ai tuân thủ luật pháp. Một khi không còn ai tin tưởng nữa, thì xã hội sẽ bị đình trệ. Mất ý thức về lợi ích chung. Người người sống lệch hướng và giới cầm quyền sẽ cai trị bằng ức chế. Đàn áp. Thống trị. Và quan chức có trọng trách quản cai lớp người ở dưới sẽ biến chất và mất hứng quản trị.

Vì mất sự tin tưởng, mà các thể chế ở Đông Âu khi trước, và bây giờ là các nước ở Trung Đông, đang bị lật đổ. Lãnh tụ chế độ phải nại vào phương tiện truyền thông tối tân để khai phóng hình ảnh mình và các giá trị mình tiêu biểu. Nhân cách đã trở thành diện mạo của chế độ; và từ đó, đảm bảo có được sự cai trị tốt đẹp.

Trường hợp ĐGM Morris bị ép buộc về hưu non sẽ nhận rõ hơn, nếu ta nhìn vào bối cảnh rộng lớn. Giáo hội Công giáo chịu ảnh hưởng từ các đổi thay về truyền thông. Cách riêng, vào triều đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, khi giới chức cầm cân nảy mực đã nhịp nhàng cân nhắc tổ chức các chuyến đi ra nước ngoài cho Đức Giáo Hoàng cốt để thăng hoa hình ảnh của vị Giáo Hoàng đương đại, cũng như đẩy mạnh giá trị lãnh đạo Giáo hội, bằng vào tập trung nhấn mạnh lên nhân cách của ngài.

Tập trung như thế, đương nhiên kéo theo những suy luận và đồn đoán sẽ có sự ăn khớp giữa hình ảnh về Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Và làm thế, có thể sẽ nói lên quyết tâm của các ngài về việc trở với giá trị Tin Mừng mình rao truyền? Và từ đó, hình ảnh giáo hoàng của ngài đã trở nên không thể kềm chế được nữa. Chất xúc tác từng tạo ra cái nhìn trải rộng khắp nơi, cho thấy: hình ảnh về Giáo hội và thực tại cuộc sống đúng Tin Mừng, không còn ăn khớp với nhau nữa. Điều này lại được truyền thông/báo chí khai thác tối đa, qua các vụ tai tiếng liên quan đến “xách nhiễu tình dục” trong Giáo hội, mà một số Giám mục đã xử lý không đúng cách, trong đó phải kể cả Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nữa. Chừng như, hôm nay, Giáo hội đặt trọng tâm khá nhiều không còn vào con người nữa, mà vào lợi ích của thể chế, thì đúng hơn.

Việc Toà thánh La Mã đối xử với ĐGM Morris như vừa kể, đã dẫn đến nguy cơ làm mờ nhạt hình ảnh tốt đẹp mà Giáo hội muốn có. Bởi lẽ, câu chuyện về đấng bậc nhân hiền ở giáo phận quyết tâm khuyến khích Giáo hội hành xử cho đúng đắn và kiên định khi phải đối đầu với tai tiếng, lại bị cấp trên của mình cách chức bằng một thủ tục hành chánh, thiếu trong sáng. Những thứ đó cộng lại, càng làm cho nhiều người mất tin tưởng vào Giáo hội. Và, càng làm cho những người này đi đến kết luận là: Giáo hội nay chọn lựa cung cách đối xử theo kiểu của nhà độc tài, toàn trị.

Rõ ràng là, với phần đông người Công giáo hôm nay, Đức Giáo Hoàng và các giám mục vẫn là trọng tâm để họ đặt tin tưởng. Mọi người vẫn gắn bó với Giáo hội, vì họ đã gặp Chúa khi nối kết thiết thân với Kitô-hữu khác. Những vị như thế, dám có ý nghĩ là toà thánh La Mã và các giám mục địa phương vẫn có cái nhìn tốt về Hội thánh, nhưng họ ít quan tâm đến quan hệ của các đấng bậc ở trên. 

Tuy thế, với nhiều người, chí ít là các vị sống tại giáo phận Toowoomba, nhất là những vị có tâm thức cao, thì việc cách chức ĐGM Morris đã và đang xói mòn dần sự tin tưởng vào Đức Giáo Hoàng và các giám mục.

Thật ra, thì các ngài vẫn là hình ảnh của Hội thánh và vẫn quyết tâm gắn bó với Tin Mừng. Nhưng, vấn đề là giá trị của Tin Mừng và của xã hội ta đang sống có phản ánh qua cung cách của những người ở trong đó, đối xử tốt với nhau không? Và, vấn đề còn lại, là: làm sao ta có thể tuyên dương Tin Mừng cũng như đề cao giá trị tốt đẹp của Lời Chúa, khi xã hội ta đang sống vẫn đầy những nghi kỵ. Đã mất tin tưởng về nhiều thứ? (x. Lm Andrew Hamilton www.eurekastreet.com.au 15/5/2011)

Thế đó, là nhận định của đấng bậc giảng dạy thần học tại Đại Học Liên Dòng ở Melbourne , Úc. Ở đây, có lẽ cũng nên thêm đôi điều từ một thông tin về thư mục vụ của ĐGM Morris gửi cộng đoàn trong giáo phận Toowoomba, Úc:

“Thư mục vụ Mùa Vọng 2006 được coi như bước khởi đầu cho cuộc tranh cãi về việc cách chức ĐGM William Morris, trước nhất đề cập đến kế hoạch cung cấp lãnh đạo cho tương lai giáo phận trong tình hình các thánh lễ và số linh mục hiện đang giảm sút.

Qua thư gửi cộng đoàn kẻ tin trong giáo phận, ĐGM Morris thông báo rằng đến năm 2014, giáo phận Toowoomba sẽ chỉ còn 6 linh mục ở độ tuổi 65 hoặc trẻ hơn có địa bàn làm việc ở giáo xứ, và hiện nay chỉ có 3 linh mục tuổi từ 61-65 và tám vị ở độ tuổi 66-70. ĐGM Morris dự kiến đến năm 2014, sẽ chỉ có hai linh mục ở tuổi 65 và trẻ hơn, hai linh mục ở tuổi 66-70 và một giám mục ở độ tuổi 70-75 thôi.

Khi thông báo tình hình khá bi đát như thế, ĐGM Morris đã viết một đoạn thư ngắn, và có lẽ đoạn này đã làm ngài mất chức. Đoạn ấy như sau: “Tuy chúng ta vẫn tin vào tính ưu việt của Tiệc Thánh Thể cũng như sự liên tục và sống còn của cộng đoàn giáo xứ, có lẽ ta cũng nên cởi mở hơn, với các giải pháp chọn lựa khác, để đảm bảo rằng Tiệc Thánh vẫn được tiếp tục cử hành như xưa. Ý kiến mà cộng đoàn thế giới cũng như trong nước và tại khu vực đã đề cập, có thể ta cũng nên nghĩ đến việc: phong chức cho các nam nhân nào đã có gia đình, còn độc thân hay goá vợ, đã được cộng đoàn giáo xứ tuyển chọn và xác chứng. Cũng nên tiếp nhận các cựu linh mục hồi tục, đã có vợ hoặc còn độc thân, để họ quay về làm mục vụ. Nên phong chức cho phụ nữ đã lập gia đình hoặc còn độc thân; và cũng nên công nhận các dòng tu của Giáo hội Anh giáo, Thệ phản Luther và Giáo hội Hiệp nhất. Ta nên đẩy mạnh một cách chủ động việc đề cao bậc độc thân của chức linh mục; và mở rộng tay mời đón các linh mục từ nước ngoài đến công tác mục vụ, ở giáo phận.”

Trong buổi phỏng vấn khác có thu hình, ĐGM Morris công nhận là thư Mục vụ 2006 của ngài nói hơi mạnh như thể ngài “ôm đồm nhiều quá”, khi đề nghị Toà thánh nên phong chức cho phụ nữ và nam nhân nào đã có vợ, mới có lợi. Nhưng, ngài vẫn cương quyết nói: “dù sao, ta vẫn phải sống trung thực với chính mình.”

Ngoài ra, khi được hỏi có thể nào Toà thánh sẽ dành cho ngài một thủ tục pháp lý để khiếu kiện chuyện thúc ép về hưu non chăng? thì ĐGM Morris trả lời: “Đến lúc này, đa số các giám mục chúng tôi mới được bảo cho biết là không có thủ tục nào như thế cho các giám mục. Trước đây, chúng tôi không hề tưởng tượng có những chuyện như thế hết.” Và, ĐGM Morris cũng cho biết là ngài cũng đã có buổi gặp Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI trong vòng riêng tư, nhưng không kết quả. Đại để, câu nói của ngài là thế này: “Mình cũng chẳng tranh luận được gì. ĐGH có lập trường của ngài, mình lại có lập trường của mình. Cũng như thể, lập trường của ai người nấy giữ.” Trong một lần khác, ngày 3/5/2011, ĐGM Morris có nói với phóng viên báo chí rằng: Toà thánh có điều tra việc ngài “quá cởi mở” “ôm đồm nhiều thứ” khi viết thư luân lưu cho giáo phận mình. Và ngài có nói là: ngài cũng không quá gắn bó với các đề nghị ghi trong thư luân lưu, mà chỉ muốn bà con lưu ý về các tranh luận diễn ra trong Hội thánh, thôi.” (x. Tom Roberts & Joshua J. McElwee, GM Morris: Sống Trung Thực Với Chính Mình  www.ncronline 05/05/2011)

Quả là, thế giới bao giờ cũng có lời ra tiếng vào về những quyết định hoặc hành xử của Toà thánh. Trong số các điều tiếng ấy, phải kể đến ý kiến của đấng bậc khác cũng trên báo điện NCR ngày 06/06/2011, như sau:

“Trên thế giới, nhiều nguời Công giáo vẫn cứ tin là Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI, với tư cách là Giám Mục thành La Mã, đã được Chúa trao cho quyền được phép không chỉ đề cử thôi mà còn có quyền cách chức các giám mục trong Giáo hội La Mã nữa. Đây là nhận định sai. Việc cách chức GM Morris cho ta cơ hội để tìm hiểu thêm về cơ chế của Hội thánh. Ngay từ buổi đầu lịch sử Giáo hội, các giám mục là đấng chủ quản do hàng giáo sĩ và giáo dân bầu ra, cho giáo phận. Trong đó, phải kể cả Giám mục thành La Mã, tức Đức Giáo Hoàng. Thế kỷ thứ 3, thánh Cyprianô lúc ấy là Giám mục thành Carthage miền Bắc Phi Châu, đã làm chứng cho việc bầu cử như thế.

Năm 325, Công Đồng đại kết đầu tiên họp tại Nicê, đã thấy có khác biệt giữa Giáo hội Đông Phương và phuơng Tây. Ở phương Tây, tiếng nói và ước muốn của hàng giáo sĩ và giáo dân mang tính qui tắc, đúng luật. Nhưng càng về sau, các giám mục ở địa phận kế cận, lại đưa thêm vào đó, nhiều dự liệu. Ở phương Đông, từ ngày Hoàng đế Constantine đưa giáo đô La Mã về lại Constantinople, thì quyền lực của giáo sĩ và giáo dân được chuyển qua cho giám mục. Nhất là các vị tổng giám mục chính toà.

Giữa thế kỷ thứ 5, ĐGH Lêô Cả, có đề ra nguyên tắc sau đây: “Đấng bậc nào quản cai mọi người đều phải do mọi người bầu lên.” Nhưng, vì lý do chính trị, vai trò của hàng giáo sĩ và giáo dân trong việc bầu giám mục sở tại, đã chấm dứt, cuối ngàn năm thứ I.

Đến thế kỷ 11, là thời có cuộc Cải cách do ĐGH Grêgôriô Cả thiết lập, đó là lúc mọi quyền lực đều tập trung vào Giáo hoàng. Lúc ấy, cũng có nhiều vận động nhằm tái tạo thực quyền của giáo dân như khi trước, nhưng không thành. Đằng khác, thời bấy giờ các giám mục chung quanh đóng vai trò khá trọng yếu trong việc bầu giám mục. Và thực tế, quyền hành đã chuyển về Giáo Hoàng và vua quan hoặc các ông hoàng, rồi. 

Kịp đến đầu thế kỷ 19, theo giao ước được ký kết giữa Hoàng đế Napôlêon của Pháp và ĐGH Piô VII, thì chỉ Đức Giáo hoàng mới có trọn quyền đề cử hoặc cách chức giám mục thuộc Hội thánh Công giáo, mà thôi. Hệ thống này vẫn tồn tại đến hôm nay, nhất là từ niên biểu 1917, năm Hội thánh ban hành Bộ Giáo Luật (x. Gl 329, điều 2).

Ngoại trừ một số ngoại lệ, còn thì các giám mục đều được chỉ định, do các giám mục địa phương đề nghị đưa tên tuổi cho Sứ thần Toà thánh để rồi vị này chuyển về Giám-mục-đoàn kèm theo đề nghị cuối của vị ấy, mà trình lên Đức Giáo Hoàng để ngài có quyết định chung cuộc. Nói cho cùng, nhiều vị nghĩ rằng: thể thức chỉ định và cách chức giám mục trong Giáo hội là do ý Chúa. Nhưng thực sự không phải thế. Sự việc cách chức ĐGM Morris ở Úc, phần lớn là sản phẩm của giao ước đạo ký vào năm 1801 giữa Hoàng đế Napolêon và ĐGH Piô VII. Chúa không nhúng tay vào các chuyện này.

Có lần ĐHY Leo-Jozef Suenens, là vị Giám mục tên tuổi rất sáng chói thời Công đồng Vatican II có viết: “Xin mọi người nhớ cho rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện không sai sót trong Hội thánh, qua sự lần mò, yếu kém của con người. Và Ngài vẫn tạo sinh khí cho con người ngay trong Giáo hội, để Giáo hội nhận được luồng gió mát Ngài thổi, nhân lễ Ngũ Tuần, ngay từ đầu.” Và đó cũng là lời nguyện ước của mọi người: “Lạy Thần Khí Chúa xin hãy đến!” (x. Lm Richard McBrien www.ncronline.org 06/06/2011)

Nói chung, thì đúng là Thần Khí vẫn làm việc. Và, việc Ngài làm, nhiều lúc con người khó cảm thông, hoặc đồng ý. Vấn đề còn lại, là: tôi và bạn có tin thế không mà thôi. Cuối cùng, có lẽ cũng nên qui về lời của vị thánh cả của Hội thánh, vẫn dặn dò:

“Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc,

bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền,

là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.”

(1P 4: 14)

  Xem thế thì, cả ĐGM Bill Morris lẫn Hội thánh ta đều “có phúc có phần, chẳng cần gì lo”. Chí ít, là “lo con bò trắng răng”! Vẫn muôn năm.

            Trần Ngọc Mười Hai

            Hằng tâm niệm

            một điều

            ra như thế.

 

dongcongnet-sưu tầm 14-7-2011

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)