Suy niệm Lời Chúa..

by Huệ Minh

 

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY 2021

THANH TẨY TÂM HỒN

Xh 20,1-17 (hoặc Xh 20,1-3.7-8.12-17); 1 Cr 1,22-25; Ga 2,13-25.

          Đời sống tôn giáo của người Do Thái gắn chặt với đền thờ.

          Đền thờ là trung tâm của Đạo.

          Đền thờ là nơi có Hòm Bia Thánh - nơi con người đến để gặp gỡ Thiên Chúa.

          Trong cựu ước, dân Do Thái dùng lễ vật chiên bò hay bồ câu để hiến dâng cho Thiên Chúa, biểu tỏ hành vi thờ phượng. Vì thế mới có chuyện buôn bán trong đền thờ như được thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Trong tân ước, Đền thờ mới chính là Đức Giêsu. Ngài vừa là tế nhân vừa là tế vật. Ngài dâng lên Chúa Cha của lễ là chính thân thể được sát tế của Ngài, đồng thời Ngài cũng là vị Thượng tế đời đời một cách đúng nghĩa nhất.

          Và rồi chúng ta nhớ lại điều tương tự khi Chúa nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp : “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Chân lý (Ga 4, 21- 24).

          Chúa Giêsu muốn vén mở cho đám đông về chân dung cứu thế của Ngài, và dung mạo Messia nơi Ngài sẽ được hiển thị cách tròn đầy ngang qua Thập giá. Vì thế, Giáo hội chọn bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay để trình bày về linh đạo của thánh Phaolô, đồng thời đó cũng phải là sự chọn lựa duy nhất mà mỗi người chúng ta cần thể hiện. Thánh tông đồ viết : “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 22 - 23).

          Sau đó thánh Phaolô giải thích cho giáo đoàn biết rằng, đây là một nghịch lý vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã thể hiện ngang qua cái chết của Chúa Giêsu. Quả thật, đây là một nghịch lý đối với não trạng con người, bởi vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người. Cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. Nghịch lý còn được các thánh ký nói tới rất nhiều lần. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp kém trong kiếp người hèn hạ, một Thiên Chúa vô cùng thánh thiện lại bị kết án và chết cách nhục nhã như một tên tội phạm. Nghịch lý này cũng được lập lại một lần nữa trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa vén mở về sự phục sinh vinh thắng của Ngài. “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây lại”.

          Lễ Vượt Qua nhằm vào ngày thứ mười lăm tháng Nisan, tức khoảng tháng tư dương lịch, và theo luật pháp Do Thái, mọi người nam Do Thái sống cách Jerusalem trong vòng hai mươi lăm cây số, bắt buộc phải về dự lễ. Không phải chỉ có người Do Thái ở trong xứ Palestine về dự lễ Vượt Qua mà thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dầu sống ở xứ sở nào, họ vẫn mơ ước và hi vọng được dự lễ Vượt Qua tại Jerusalem ít nhất một lần.

          Riêng đối với Chúa Giêsu lần này, thì Chúa có mặt tại đây không phải chỉ với danh nghĩa một người Do Thái mà đây còn là dịp để Chúa chu toàn chức vụ của Ngài. Bởi vậy mà Ngài đã vào đền thờ như một Đấng có uy quyền.

          Cuộc sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng là một con đường, và con đường đó phải hướng về đền thờ đích thực là chính Chúa Giêsu. Ngài là ‘Đền thờ mới’ của Tân ước, là trung tâm của mọi sinh hoạt phượng tự và cũng là đối tượng của niềm tin mà chúng ta phải quy chiếu vào. Đây là sứ điệp nồng cốt mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn bày.

          Giáo Hội cũng muốn chúng ta làm một cuộc "thanh tẩy", không phải đền thờ vật chất nhưng là đền thờ tâm hồn của mỗi người như lời thánh Phaolô: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?" (1Cr 3,16)

          Thiên Chúa không cần nhà vì: "Trời là ngai của Người, đất là bệ dưới chân Người" (Is 66, 1) .Đền thờ vẫn cần thiết nhưng con người vẫn trọng hơn đền thờ, phải làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải là lo sao cho có đền thờ. Vì đền thờ trần gian với năm tháng sẽ bị hư hại, xụp đổ nhưng con người luôn tồn tại và vững bền.

          Mùa Chay thánh trong năm thánh hóa gia đình, người Kitô hữu phải hoán cải, làm cho gia đình mình mới, sống đạo, thực thi đạo hơn là giữ đạo cách máy móc, bề ngoài. Người Kitô hữu cũng phải xét lại cách giữ đạo, hành đạo của gia đình mình, của cá nhân, của giáo xứ, Giáo Hội và mau mắn đổi mới đời sống, lòng tin, cách thực hành đạo, siêng năng cầu nguyện và lần chuỗi làm cho đền thờ tâm hồn mỗi người đẹp hơn, tốt hơn. 

          Vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng trộm cắp, ăn gian nói dối, ăn hối lộ… Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.

          Vậy hôm nay, Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa cũng muốn thanh tẩy ngôi đền thờ tâm hồn mỗi người chúng ta.

Huệ Minh 2021

 

Chúa Nhật Thứ III Mùa Chay, năm B

Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25.

THANH TẨY TÂM HỒN 

Có thể nói ngày 12  - 3 - 2000, là 1 ngày lịch sử của Giáo hội Công giáo. Bởi lẽ vào Ngày 12 - 3 – 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có một cái cử chỉ hết sức đặc biệt ở Roma. Ngài cử hành cái ngày gọi là ngày xin ơn tha thứ. Đức Thánh Cha  đã  nhắc lại nhiều tội lỗi của Giáo hội như là sử dụng bạo lực để phục vụ cho chân lý, và tôn giáo pháp đình. Ngài đã đưa ra nhiều lời xin lỗi của Giáo hội đối với người Do Thái, Galilê, phụ nữ, nạn nhân của những Tòa Án Dị Giáo... những người Hồi giáo bị giết chết trong các cuộc Thập Tự Chinh, và phần lớn là nạn nhân chịu thiệt hại liên quan đến Giáo hội trong lịch sử.  

          Và rồi Đức Giáo Hoàng cũng đã gửi thư hòa giải của các các giám mục Ba Lan đến các giám mục Đức  năm 1965.  Ngài ủng hộ cái lá thư đó và đã công khai xin lỗi hơn 100 lần về những điều sai trái của Giáo hội: những tội lỗi đã diễn ra trong quá trình  chinh phục Châu Mỹ La Tinh  nhân danh Giáo hội, bị kết án bởi nhà khoa học Ý Galilê khi ông là một tín đồ ngoan đạo Đã xin lỗi vào ngày 31- 10- 1992.

          Sự dính líu của Giáo hội về nạn buôn bán Nô Lệ Châu Phi ngày 9 tháng 8 năm  1993. Rồi vai trò của Giáo hội đã thiêu sống những tín đồ dị giáo vào những cái cuộc cải cách, kháng cách, tháng 5 năm 1995.

          Cái cách mà đối xử bất công với phụ nữ, vi phạm nhân quyền của phụ nữ cũng như bôi xấu, dèm pha, phỉ báng phụ nữ . Trong một bức thư gửi cho phụ nữ thế giới trên toàn cầu ngày 10 tháng 7 năm 1995.

          Và sự im lặng của chức sắc Công giáo trước sự hủy diệt của chế độ Phát xít ngày 16 tháng 3 năm 1998 , thừa nhận cái sự sai lầm của Giáo hội trong việc xử tử Gian Hut   ngày 18 -12 - 1999 tại Praha.

          Tội của Giáo hội Công giáo trong việc vi phạm quyền lợi chính đáng của các nhóm sắc tộc.  Và rồi ngày 12 - 3 Đức giáo hoàng đã xin lỗi tập thể trước cộng đồng tại Vatican . Và lớn nhất đó là cái tội mà chia rẽ trong Giáo hội Công giáo, xúc phạm đến các nền văn hóa và tôn giáo và trong đó có thực hiện truyền giáo ở Mỹ Châu và Á Châu,  nhiều tội xúc phạm đến lương tâm con người.

          Và đứng trước cái hoạt động xin lỗi của Đức Giáo Hoàng với nhiều phản ứng khác nhau có người thì cho rằng hành động của Đức Giáo Hoàng như vậy là can đảm, mở ra một đường lối đối thoại với các tôn giáo khác để dẫn tới hòa giải.

          Nhưng có người thì cho ý kiến ngược lại và  rất nhiều ý kiến khác nhau. Một số anh chị em tôn giáo thì hoang mang bởi vì trong đầu có mình ấp ủ rằng Giáo Hội là một Giáo Hội thánh thiện.  Công giáo nghĩ rằng Giáo Hội thân thiện mà tại sao Giáo Hội lại như thế ? mà Tại sao tôi phải tin theo Giáo Hội!  Và có người thì nghĩ rằng Giáo hội thì là bị tấn công!

          Rõ ràng rằng : Giáo hội phải xin lỗi vì những sai lầm của mình.  

          Có nhiều cách đặt vấn đề sâu hơn: thật sự là Giáo hội có lỗi hay không?

          Nếu như chúng ta đứng về thời điểm của thời lịch sử thời hiện tại lúc đó, cách đây 5, 6 thế kỷ thì chúng ta có thể nói rằng là Giáo hội có tội lỗi hay không?

          Khi chúng ta đặt não trạng về:  kinh tế, văn hóa, chính trị của Giáo hội thời đó. Phải chăng là chỉ có một mình Giáo hội vi phạm và chỉ có một mình Giáo hội tội lỗi thôi! Trong khi đó có hàng triệu triệu người Công giáo phải đổ máu đào để mà tuyên xưng niềm tin của mình để mà chấp nhận sự bách hại của những đạo khác.

          Và xem chừng như là lời xin lỗi một chiều ấy như vậy có đúng hay không?  Và sau đó giáo hội đưa ra nhiều tài liệu để mà phân tích cái việc Đức Giáo Hoàng xin ơn tha thứ.

          Nói về cái ý nghĩa của lời tha thứ cũng như mục đích nhắc tới cái sự kiện mà Đức Cố giáo hoàng Phaolô II xin lỗi đó, thì không phải nhắc đến cái chuyện đi tìm ý nghĩa mục đích!

          Nhưng hôm nay, con muốn mời gọi Cộng đoàn chúng ta nhìn lại cuộc đời Kitô hữu của chúng ta là một cuộc đời hành hương.

          Và hành động của Đức Giáo Hoàng là một cái hành động thanh tẩy, sám hối trong cái hành trình hành hương đó!  Và cái hành động sám hối đó là cái hành trình không ngừng trong cuộc hành trình tiến về nhà Cha.

          Với trang Tin Mừng theo Thánh Gioan, đặc biệt Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem. Trong tiếng Latinh thì ecclesia có hai nghĩa : Nghĩa thứ nhất là nhà thờ xây dựng bằng gạch đá và nghĩa thứ hai đó là Cộng đoàn tín hữu.

          Kinh Thánh nói đến việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ tưởng cũng nghĩ rằng nên nhớ đến việc thanh  tẩy  Giáo Hội của chúng ta. Thanh tẩy cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta. Tại sao vậy ?

          Bởi vì sự thánh thiện của Công giáo, của Giáo hội mà chúng ta tuyên xưng đó trong kinh Tin Kính: «Giáo hội Công giáo, thánh thiệt tông truyền.» Vì Giáo Hội chắc chắn  là thân mình của Chúa Kitô là đền thờ của Chúa Thánh Thần nên Giáo Hội được gọi là thánh.

          Thế nhưng, trong thực tế Giáo Hội vẫn mang trong lòng mình mỗi một con người chúng ta, mà con người chúng ta lại hội tụ những yếu đuối để làm thành một cái giáo hội. Để rồi chắc chắn Giáo hội vẫn mang trong mình thân phận mỏng dòn và yếu đuối của con người.

Có một người nói rằng:  không có gì là của con người mà xa lạ đối với tôi. Những cái gì mà tham sân si của con người thì không xa lạ với mình bởi vì mỗi lẽ, bởi lẽ mỗi người trong chúng ta, ai ai cũng cảm được cái xấu của mỗi người chúng ta hơn ai hết. Và cái tham sân si của mình thì không ai biết bằng chúng ta.

          Trong lòng Giáo hội là những con người và rồi Giáo Hội mang trong mình sự yếu đuối và thậm chí là tội lỗi, nhưng mà chúng ta nên nhớ rằng giáo hội là một giáo hội mầu nhiệm hiệp thông. Các chi thể trong giáo hội hiệp thông với nhau rất sâu sa, đến nỗi chia sẻ với nhau cả ơn sủng và chia sẻ với nhau cả tội lỗi nữa.

          Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em ở bên kia thế giới kể cả: vật chất và hữu hình. Chúng ta có thể cầu nguyện cho người nhà của chúng ta ở bên kia thế giới: ở Mỹ, ở Đức, ở Pháp. Và chúng ta có thể cầu nguyện với anh chị em chúng ta khi anh chị em chúng ta ở trong Luyện ngục.

          Và tội của anh chị em chúng ta và bản thân của chúng ta nữa thì giáo hội phải mang gánh. Như chia sẻ ân huệ thiêng liêng, thì Giáo Hội cũng chia sẻ cái gánh của tội lỗi. Đó là cái cơ sở thần học để chúng ta cùng nhau hiệp ý xin Chúa tha thứ tội lỗi cho toàn thể Giáo Hội: của quá khứ và của cả hôm nay nữa!

          Nói như vậy thì Giáo hội cần thanh tẩy và mỗi người chúng ta là chi thể trong Giáo Hội, chúng ta cũng cần thanh tẩy. Và mỗi người chúng ta là thành viên trong Giáo Hội, chúng ta cũng cần được thanh tẩy, mà là thanh  tẩy cái gì?  Chẳng lẽ thanh tẩy “tội” theo kiểu nói chung chung!

          Nói chung chung thì cũng dễ nói, nhưng mà khó hiểu! Nhưng mà đi sâu hơn nữa chúng ta quy chiếu về Tin Mừng. Ngày hôm nay Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem vì người ta buôn bán trong đền thờ. Thật sự ra mà nói, ai mà dám mang chiên, bồ câu, tiền đi vào ngay trong đền thờ mà đổi tiền được, làm gì có!

          Chúng ta nhớ đền thờ Giêrusalem rất là rộng lớn, có mấy sân lận ! Có sân dành cho đàn ông, có sân dành cho đàn bà và có sân dành cho dân ngoại! Dân ngoại thì buôn bán ở bên ngoài , và có chăng người ta buôn bán trao đổi ở bên ngoài thôi!

          Và từ góc độ nào đó, chúng ta thấy việc buôn bán và đổi tiền đã dần dần đổi đi cái mục đích thánh thiện.

Ngày xưa, thật sự mà nói:  đi hành hương làm sao mà  con đường dài, người ta không thể mang chim câu, chiên bò đến để mà dâng của lễ được và chính vì thế phải có một cái dịch vụ kiều hối! Điều đó là điều bình thường thôi!

          Nhưng mà tại sao Chúa Giêsu lại nổi nóng, và đánh lunG tung với những người đổi tiền, những người bán chim bồ câu đó!  Bởi vì cái ý nghĩa, mục đích thánh thiện đã biến mất, và thay vào đó những người buôn bán ở trong sân đền thờ đó không ai khác là các tư tế, gia đình tư tế và họ tạo thành một cái thế độc quyền.

 

Đền thờ với tính cách ban đầu là tinh tuyền, là thờ phượng Thiên Chúa, nhưng mà các tư tế đã thay bằng một mục đích khác, cho lợi nhuận để tìm tiền bạc.  Và chính vì lợi nhuận và tiền bạc đó, đã biến chất đi cái ý nghĩa thiêng liêng của đền thờ.  

          Biết như vậy, Chúa Giêsu đã cảm thấy buồn! Khi người ta biến Thiên Chúa không là chủ đền thờ, mà Thiên Chúa là tôi tớ để phục vụ cho thần tượng của con người, đó là ma men, đó là đô la, đó là tiền bạc.

          Chúng ta thấy, khi mà Giáo Hội cho chúng ta nghe bài đọc thứ nhất trích sách Xuất Hành với mười điều răn. Tội căn bản của con người là gì? Là tội thờ ngẫu tượng.

Con người đã được Thiên Chúa yêu thương chở che giữ gìn, nhưng con người vẫn đi tôn thờ những thần thánh khác.

Thật sự ra mà nói, mỗi người chúng ta , không ai can đảm để mà bỏ Chúa, để đi lấy Đôla đem lên  cái bàn thờ, thờ đâu! Chúng ta cũng không bao giờ dám bỏ Thập Giá Chúa xuống để lấy tờ đôla lên  thờ .

Thế nhưng  rồi, trong từng giây, từng phút của cuộc đời chúng ta, trong cái suy nghĩ và trong chọn lựa của chúng ta, chúng ta vẫn chọn lựa đôla, tiền bạc, quyền lực thay vào thờ phượng Thiên Chúa.  

          Chúng ta lấy mục đích đời của ta, khác với Thiên Chúa, và rồi từ những cái suy nghĩ đó tương quan của Thiên Chúa và tương quan của chúng ta nó thay đổi.

           Thay vì chúng ta sống công bằng với anh chị em chúng ta, thì chúng ta sống chiếm đoạt. Thay vì chúng ta sống trung thực với người đồng  loại,  thì chúng ta gian dối.  Thay vì yêu thương thì chúng ta chà đạp.  

 Thanh tẩy và hoán cải lòng chúng ta, không phải là hoán cái một cách chung chung, mà là cái cách chúng ta lựa chọn đời sống căn bản.  Căn bản của chúng ta, chúng ta chọn Chúa hay chúng ta chọn tiền bạc đổi chác, để làm thành trung tâm điểm đời sống của chúng ta.

          Và điều quan trọng hơn nữa đó chính là cái sự ngụy trang trong đời sống thiêng liêng. Đền Giêrusalem sinh hoạt rầm rộ.  Như nhiều nhà thờ, như nhiều đền thờ chúng ta thấy:  nhưng ý nghĩa bên trong đã thay đổi.

          Ở đây, lẽ ra làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng rồi người ta đã tôn vinh con người lên để làm chủ và làm chúa đó chính là cái sự khốn nạn nhất của đời người.  

          Chúng ta thấy Giuđa đó! Cái nụ hôn rất đẹp! Cái nụ hôn  là dấu chỉ của tình yêu, tình thương của con người, của người Nam người nữ dành cho nhau và của anh chị em dành cho nhau. Đó là quy ước của tình yêu, tình thân . Nhưng Giuđa đã biến đổi thành quy ước của sự bội phản.

Ngày hôm nay cũng có rất nhiều nụ hôn, người ta trao cho nhau.  Nhưng cái nụ hôn đó chỉ là cái nụ hôn của giả tạo, của phản bội, của lừa lọc nhau.

          Căn bản con người không phải là hành động, mà mặc cho cái hành động tội lỗi đó! ngụy trang  cái hành động tội lỗi đó!  Khoát cho cái hành động tội lỗi đó một cái rất đẹp bên ngoài, nhưng mà thực chất chỉ là đóng kịch.  

Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta đóng kịch riết rồi chúng ta không còn ý thức cái tình trạng vong thân và tha hóa với nội tâm của chúng ta nữa!

          Và khi đó thanh tẩy không chỉ là thanh từ bên ngoài Đền thờ, rửa dọn chùi lau,  nhưng thanh tẩy là thanh tẩy tận bên trong đáy lòng của mỗi người chúng ta.

          Có một câu nói rất là dễ thương:  đời đâu có cho ta cát sê đâu mà sao ta diễn hay quá! nhiều khi ta mặc lấy những cái giả dối, những cái lừa lọc, những cái oán thù đó!  Bằng những lời nói thật hay, thật đẹp! Bằng những bông hoa, bằng những quà tặng. Nó  lấp liếm đi cái sự thật bên trong gian ác của chúng ta

          Thanh Tẩy không ngừng, bởi vì mỗi người chúng ta có cái kinh nghiệm: ngày nào chúng ta cũng đối diện trước sự cám dỗ của phạm tội, ngày nào chúng ta cũng đối diện với những đau khổ của cuộc đời.  

          Rồi chúng ta cần phải xin  thanh tẩy, ngày này qua ngày khác. Và thanh tẩy đó là cái hành trình suốt cả cuộc đời của chúng ta. Đặc biệt trong mùa chay thánh này!

          Hội  thánh mời gọi chúng ta cũng như tạo cơ hội cho chúng ta sống cái lời thanh tẩy đó!  Một cách cụ thể và sâu sắc hơn.

          Chúng ta cầu nguyện cho nhau, chúng ta cầu nguyện cho mỗi người chúng ta để chúng ta sống đúng ý nghĩa các sự thanh tẩy tâm hồn của chúng ta, mỗi người chúng ta và thanh tẩy cái đền thờ tâm hồn, mà nơi đó Chúa Giêsu là Đấng ngự trong lòng chúng ta. Amen.   

 

Thứ Bảy Tuần III Mùa Chay
Hs 6,1-6; Lc 18,9-14.
SÁM HỐI
          Chúng ta đã bước vào cuối tuần thứ III Mùa chay, lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, canh tân đổi mới đời sống của bản thân và gia đình vẫn khẩn thiết được gửi đến từng người trong chúng ta từ linh mục đến tu sĩ và giáo dân. Việc sám hối trở về là việc của mọi người, tuy nhiên có nhiều người trong chúng ta vẫn chưa có một quyết định thay đổi cụ thể nào, lý do vì họ không nhận ra những sai lầm thiếu sót của mình, là vì họ làm sai mà cứ cho là đúng, họ để cho sự kiêu căng tự mãn che khuất nên không thể nhìn thấy rõ thực chất tình trạng con người của mình.
          Thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu kể dụ ngôn nhắm đến những người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác. Ông Pharisêu ấy nghĩ rằng, ông được nên công chính nhờ những việc ông làm, nên sinh ra kiêu ngạo mà coi khinh người khác (c.11). Nhưng ông quên rằng con đường đích thực để nên công chính không phải là nhờ công trạng của ông mà là nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa. Con đường này được Thiên Chúa vạch ra và hoàn thành qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô” (Rm 3,22). Thế nên Chúa Giêsu khẳng định: người thu thuế, khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính; còn người Pharisêu thì không (c.14).
          Sự kiêu căng tự mãn nó cũng che khuất con mắt của người biệt phái hôm nay, anh ta lên đền thờ với tư thế hiên ngang tự đắc, anh nghĩ rằng các thành tích anh đã làm khiến cho Thiên Chúa phải “nể” anh và mắc nợ anh.
          Thật sự người biệt phái này không hề cầu nguyện, mà anh đang làm một bản báo cáo thành tích của chính mình và kể lể công trạng trước mắt Chúa: Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười thu nhập hằng ngày. Việc làm ấy quá tốt, vượt trên cả luật lệ quy định về ăn chay, thế nhưng, anh ăn chay không phải để đền tội hy sinh, cũng không phải để chuẩn bị đón Đấng Mesia như ý nghĩa ban đầu của nó, mà anh ăn chay và giữ luật chỉ để cho thấy anh hơn người khác. Chính vì thế, ngay từ lời mở đầu anh đã có ý so sánh mình với người khác: Lạy Chúa tôi tạ ơn Chúa vì tôi không như bao kẻ khác, tham lam bất chính, ngoại tình hay như tên thu thuế kia.
          Không chỉ so sánh công trạng của mình với ngưới khác, nhưng anh còn tỏ vẻ khinh miệt người thu thuế kia, và cứ như anh đã nói, thì có thể thấy anh coi nhưng người khác là những người tội lỗi và phạm những cái tội mà anh không hề phạm, chứng tỏ anh tốt hơn họ rất nhiều, anh thầm muốn nói điều đó qua lời cầu của mình.
          Trong khi đó, người thu thuế nhận ra tình trạng khốn khổ tội nghiệp tội lỗi bất xứng của mình, anh không dám ngửa mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực cầu nguyện với lòng sám hối chân thành: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Anh không dám kể lể gì, vì anh thấy mình chẳng có công trạng gì, anh đã nhìn thấy sự thiếu sót khiếm khuyết và tội lỗi của mình, anh biết rằng vì nghề nghiệp, vì cuộc sống mà anh đã phải làm một cái nghề bị xã hội đương thời kết án là ô uế tội lỗi, vì anh đã thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều người và vì sự cuốn hút của đồng tiền khiến anh cũng không thể cầm lòng được. Chính vì ý thức và nhìn thấy thực trạng con người của mình trước mặt Chúa và trước mặt mọi người, nên anh chỉ còn biết kêu xin lòng thương xót và sư tha thứ của Thiên Chúa.
          Về phía Thiên Chúa, Ngài chỉ chờ đợi có như thế Ngài chỉ mong muốn không phải là những thành tích dài dòng, không phải là những báo cáo tổng kết, mà là một “tấm lòng tan nát khiêm cung”, tan nát vì hối hận, vì thấy rằng mình đã làm tổn thương đến tình yêu của Thiên Chúa là Cha, khiêm cung vì nhìn thấy mình hoàn toàn bất xứng đáng bị trừng phạt hơn là được khoan dung, khiêm cung để nhìn thấy được tình yêu và lòng quảng đại tha thứ của Chúa. Thiên Chúa muốn và chờ đợi thái độ như thế, và vì thế, câu chuyện cho thấy Chúa Giêsu tuyên bố: Người thu thuế khi trở về thì được tha thứ và nên công chính, còn người biệt phái thì không.
          Có thể chúng ta chưa sám hối, chưa thay đổi là vì chúng ta cũng giống người biệt phái kia chăng? Chúng ta không nhìn thấy tội lỗi của mình mà chỉ nhìn thấy những thành tích, có khi chúng ta cũng kể lể với Chúa rằng: tôi vẫn đi nhà thờ vẫn đi lễ, vẫn đọc kinh, vẫn đóng góp dâng cúng chỗ này chỗ khác, nên không thấy được khuyết điểm của mình, chúng ta ngủ mê trong một vài thói quen đạo đức vô hồn, hình thức bên ngoài mà không có chiều sâu và không có tâm tình yêu mến, hoặc chúng ta đến với Chúa không phải với thái độ của người con, của người cần sự tha thứ, cẩn được yêu thương đổi mới, nên chúng ta không được tha thứ và chưa được đổi mới.

 

Thứ Sáu Tuần III Mùa Chay
Hs 14,2-10; Mc 12,28b-34.
YÊU NGƯỜI NHƯ YÊU TA
          Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương tất cả mọi người và vì yêu thương, Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống trần để mặc khải cho con người biết về tình yêu của Ngài và mời gọi con người hãy sống yêu thương để được hạnh phúc thật sự. Tất cả mọi giới răn và lề luật của Chúa được tóm gọn trong hai chữ yêu thương ấy, đó chính là:  “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”.
          Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và vị kinh sư trong trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, trước hết : “Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa….và yêu người thân cận…”
           Đây mới chỉ là bước đầu tiên là nhận biết đối tượng ta hướng tới. Nhưng khi ta nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người thân cận’, thì cũng chưa nói lên được điều gì cả. Điều này cũng tương tự như ta nói : ‘tôi học, tôi ăn, tôi suy nghĩ…’ Ta chưa có được câu trả lời trọn vẹn. Vế tiếp theo của câu trả lời của Chúa Giêsu cho ta biết, ta phải yêu với như thế nào : “Yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Yêu người thân cận như chính mình.” Đây mới là bước quan trọng nhất để ta tìm được giá trị đời sống của mình.
          Ta phải dành cho Thiên Chúa vị trí ưu tiên, vì chính Người đã cho ta được sống, và sẽ cứu độ ta. Đồng thời, ta sống ở đời là sống với, nên ta không được yêu cách vị kỷ, nhưng ta cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Chính Chúa Giêsu cũng nói cho ta khuôn vàng thước ngọc, khi sống tương quan với tha nhân, là : “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7,12). Hay “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ…Thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình”(Rm 12,9a-10) ; Đức Khổng Tử cũng đã nói, với một ý nghĩa hơi khác một chút : “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” – “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15).
          Khi nghe tin Thầy Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc bị khóa miệng, thì những người Pharisêu họp nhóm lại với nhau. Rồi một người thông luật trong nhóm giơ tay hỏi (ý kiến) Chúa Giêsu để thử Người: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28b). Phải chăng đây là cơ hội để làm Thầy Giêsu mất mặt? Họ hỏi xem Thầy có hiểu biết gì về luật và có tôn trọng luật lệ không? Nhưng Thầy nhanh chóng “tóm tắt nội dung” rõ ràng: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,29-31). Toàn bộ lề luật được tóm gọn lại trong hai giới răn quan trọng nhất: mến Chúa-yêu người. Hôm nay Thầy nối kết hai điều răn này là một, như một sự bất khả phân ly.
          Giới răn thứ nhất: Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là điều răn quan trọng đối với người Dothái. Để nhắc nhớ, họ dán trên cửa, đeo trên đầu như thẻ kinh và đeo trên cánh tay mỗi khi cầu nguyện sáng chiều. Điều răn phổ cập toàn dân như vậy mà họ còn đem ra hỏi Thầy Giêsu, chứng tỏ họ khinh thường muốn làm khó Thầy. Một điều răn đã “khắc ghi trên trán” như vậy, nhưng chỉ dễ nhớ mà không dễ thực hành. Người Do Thái vẫn đúc bê vàng để thờ hoặc chạy theo thần ngoại bang. Ngày nay chúng con cũng thuộc nằm lòng từ bé: “Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.” (Kinh Mười điều răn). Nhưng có lúc chúng con lại đặt các thứ khác lên trên Thiên Chúa như tiền, danh, lợi, thú…
          Giới răn thứ hai: yêu người thân cận như chính mình. Ai mà không yêu chính mình? Tình yêu đối với tha nhân được đo lường bằng tình yêu đối với chính mình. Đó thực sự là “khuôn vàng thước ngọc”. “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta , vì luật Môsê và các sách ngôn sứ dạy như thế” (Mt 7, 12). “Chớ làm cho người điều chi mà con không chịu được”(Tb 4, 15). Lý thuyết thì hay và dễ nhưng khi đối diện với hoàn cảnh cuộc sống thực tế thì xem ra rất khó.
          Khi người ta yêu Chúa với tất cả tâm hồn, bằng cả con tim với tình yêu đậm đà mật thiết với Chúa, Chúa sẽ chỉ cho biết phải yêu thương anh em như thế nào, “yêu như Chúa yêu”, hiến dâng cả mạng sống… Tình yêu Chúa như ánh mặt trời. Ta thu nhận sức nóng tình yêu của Chúa qua cầu nguyện, ở lại với Chúa và sống trong Lời Chúa. Để rồi trong Chúa ta được hâm nóng tình người bằng tình yêu Chúa qua những hành động cụ thể, những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, một nụ cười, một lời ủi an khích lệ, một ý kiến xây dựng, hành động sẻ chia vật chất, một sự tha thứ bao dung…
            Quả vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu không đi ra ngoài con đường tình yêu. Và chính Ngài đã bước vào con đường tình ấy trước, hầu nêu gương cho hết thảy chúng ta. Như trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13,34) Tuy nhiên, tôi lại cảm thấy có một sự mâu thuẫn ngay trong chính con người mình. Một đàng, lý trí tôi xác định rằng : ‘tôi phải sống thánh thiện’, đàng khác thì cung cách sống của tôi lại biểu hiện ngược lại. Chân thực mà nói, nhiều khi tôi chỉ mới xác định phương hướng, nhưng chưa nhiệt thành sống phương hướng đó.
          Đó là chưa nói nhiều lần tôi không xác định được hướng sống nữa. Đã có những ngày tháng tôi sống hời hợt, không xác định được đâu là điều quan trọng nhất. Tôi chạy theo những cái nhỏ nhen, tùy phụ. Tôi mong đợi một sự tình cờ may rủi, ngẫu nhiên hơn là tìm cho mình một hướng đi và nỗ lực, gắng sức đạt cho được đích điểm đó. Còn nữa, tôi biết mình yếu đuối, và hay rất hay thay đổi. Tôi bị cuốn theo những mục đích rất trần tục, như : khi còn nhỏ tôi cho rằng gia đình là quan trọng nhất ; khi đang học hành tôi cho rằng bạn bè là quan trọng nhất ; lớn thêm một chút, tôi lại cho rằng tiền là quan trọng nhất ; lớn thêm chút nữa tôi lại nghĩ rằng sức khỏe là quan trọng nhất… Và cứ như thế, tôi không thể nào thoát ra được cái vòng luẩn quẩn tầm thường của thân phận con người. Sứ điệp bài Tin Mừng hôm nay như thức tỉnh tôi, kéo tôi trở lại con đường yêu thương, con đường mà chính Chúa Giêsu-vị Thầy mà tôi đang dõi bước theo trong con đường tu trì-đã đi, đã nêu gương cho tôi.
          Trong Tin Mừng, khi người luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu đã trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Hai điều răn này liên kết chặt chẽ với nhau vì cùng xuất phát từ một tình yêu. Mến Chúa một cách tuyệt đối và yêu thương tha nhân cũng phải tới mức cao độ.
          Chỉ khi nào sống trong tình yêu của Chúa, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em với nhau. Như vậy tình yêu mến đối với Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta về với anh chị em của mình, còn tình yêu thương đối với anh chị em lại chính là biểu hiện của lòng yêu mến Chúa. Tóm lại chỉ có một tình yêu mà thôi: “Yêu thương tha nhân trong Chúa và yêu mến Chúa nơi tha nhân”.
          Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta con đường về cõi trường sinh. Đó là phải chu toàn, thi hành hai giới răn quan trọng mà Chúa Giê-su đã truyền ban. Đó là; kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và phải yêu thương mọi người như mình vậy. Toàn bộ lề luật của Đạo Chúa được tóm gọn trong hai giới răn này mà thôi.
          Tôn thờ kính mến Chúa là điều phải lẽ. Bởi vì chính Chúa đã tạo tác nên  mình, cùng ban cho biết bao ơn lành hồn xác.
          Yêu thương mọi người như chính mình vì lẽ mọi người đều được Chúa sinh ra, như vậy mọi người là anh em cùng một Cha. Vì lẽ đó chúng ta phải thương yêu nhau.
Sống thờ phượng kính mến Chúa và yêu thương mọi người như anh em đó là thực thi trọn vẹn mệnh lệnh của Chúa và với đời sống như vậy chúng ta sẽ có một của lễ để dâng lên Ngài, một của lễ làm cho Thiên Chúa hài lòng hơn mọi của lễ khác!

 

Thứ Tư Tuần III Mùa Chay
Đnl 4,1.5-9; Mt 5,17-19.
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT
          Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
          Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
          “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c.17). Thật vậy, Chúa Giêsu đã đẩy luật Mô-sê đi sâu vào phẩm chất của luật. Có lẽ vì thấy người Do Thái giữ luật chi theo hình thức bên ngoài “mã tô vôi” mà quên đi điều cốt lõi là sự yêu thương và lòng bác ái… “Lề luật hay lời các ngôn sứ” được nói ở đây ý chỉ là tất cả Cựu Ước, chứ không chỉ là những cuốn sách. Vì Đức Giêsu là đích điểm của tất cả lịch sử dân Chúa, là trung tâm lịch sử cứu độ, là ý nghĩa mà toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước nói tới. Ngài khẳng định: Ngài đến để kiện toàn luật, nghĩa là Ngài đưa luật tới ý nghĩa toàn hảo, ý nghĩa đích thực của nó.
          “Thầy bảo thật: Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phết trong lề luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (c.18) Một chấm, một phết ở đây không là dấu chấm phẩy trong câu văn tiếng việt của chúng ta, nhưng là những nét chấm, phết trong mẫu tự Do Thái. Đó là những nét nhỏ để phân biệt chữ này với chữ khác. Vậy tại sao một dấu nét nhỏ trong lề luật không thể qua đi? Chúa Giêsu nhấn mạnh và nêu lên hình ảnh này để nói lên tầm quan trọng đích thực của luật.
          Vì lề luật được xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa. Và những gì là Thánh ý Chúa thì không được xem là nhỏ bé, tầm thường. “cho đến khi mọi sự hoàn thành”. Chúng ta thấy ngôn từ này quen thuộc như lời Chúa Giêsu đã nói khi ở trên cây Thánh Giá trước khi trút hơi thở cuối cùng : Mọi sự đã hoàn tất… Đấng ban lề luật, Đấng xét xử lề luật đã hoàn tất công trình cứu chuộc, Ngài đã kiện toàn luật Mô-sê bằng chính sự hiến dâng thân xác của mình, để từ nay đưa con người vào sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, phá bỏ mọi gánh nặng của lề luật trói buộc con người.
          câu 19 Thánh sử viết: “Ai bãi bỏ luật là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân giữ và dạy người khác thì gọi là lớn trong Nước Trời”. Vì sao vậy? Vì luật là ý muốn của Thiên Chúa. Ai nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được gọi là mẹ, anh em, chị em của Chúa Giêsu (Lc 8,,21). Và môn đệ chân chính là người thi hành ý muốn của Chúa Cha. (Mt 7,21). Chúa Giêsu còn đưa ra ví dụ dẫn chứng về việc nghe và thực hành Lời Chúa qua dụ ngôn: xây nhà trên cát hoặc trên đá và hậu quả sự khác nhau đó sẽ xảy ra khi mưa to, bão lớn. ( 7, 24tt).
          Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
          Con người ngày nay thích tìm sự dễ dãi, họ xem Luật Chúa như một gánh nặng cổ hũ. Đây chính là nguyên nhân gây ra biết bao hệ lụy đáng buồn. Trong Sứ điệp Mùa Chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh tỉnh mọi tín hữu đừng để các tiên tri giả mê hoặc, đừng để tình yêu trở nên nguội lạnh, hãy dấn thân sống trọn tinh thần mùa chay. “Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người sẽ bị nguội lạnh” (Mt 24,12). Người ta xa lìa Thiên Chúa để chạy theo những tiên tri giả. Bao nhiêu người trẻ tìm phương được giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính! Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn giản và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! […]
          Vì thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi phân định trong tâm hồn và cứu xét xem mình có bị đe dọa vì những điều giả dối của các tiên tri giả ấy hay không. Cần học cách không dừng lại ở mức độ gần kề, hời hợt, nhưng nhận ra điều để lại trong chúng ta dấu vết tốt lành và lâu bền hơn, vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự có giá trị mưu ích cho chúng ta.

 

Thứ Tư Tuần III Mùa Chay
Đnl 4,1.5-9; Mt 5,17-19.
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT
          Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
          Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
          “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c.17). Thật vậy, Chúa Giêsu đã đẩy luật Mô-sê đi sâu vào phẩm chất của luật. Có lẽ vì thấy người Do Thái giữ luật chi theo hình thức bên ngoài “mã tô vôi” mà quên đi điều cốt lõi là sự yêu thương và lòng bác ái… “Lề luật hay lời các ngôn sứ” được nói ở đây ý chỉ là tất cả Cựu Ước, chứ không chỉ là những cuốn sách. Vì Đức Giêsu là đích điểm của tất cả lịch sử dân Chúa, là trung tâm lịch sử cứu độ, là ý nghĩa mà toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước nói tới. Ngài khẳng định: Ngài đến để kiện toàn luật, nghĩa là Ngài đưa luật tới ý nghĩa toàn hảo, ý nghĩa đích thực của nó.
          “Thầy bảo thật: Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phết trong lề luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (c.18) Một chấm, một phết ở đây không là dấu chấm phẩy trong câu văn tiếng việt của chúng ta, nhưng là những nét chấm, phết trong mẫu tự Do Thái. Đó là những nét nhỏ để phân biệt chữ này với chữ khác. Vậy tại sao một dấu nét nhỏ trong lề luật không thể qua đi? Chúa Giêsu nhấn mạnh và nêu lên hình ảnh này để nói lên tầm quan trọng đích thực của luật.
          Vì lề luật được xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa. Và những gì là Thánh ý Chúa thì không được xem là nhỏ bé, tầm thường. “cho đến khi mọi sự hoàn thành”. Chúng ta thấy ngôn từ này quen thuộc như lời Chúa Giêsu đã nói khi ở trên cây Thánh Giá trước khi trút hơi thở cuối cùng : Mọi sự đã hoàn tất… Đấng ban lề luật, Đấng xét xử lề luật đã hoàn tất công trình cứu chuộc, Ngài đã kiện toàn luật Mô-sê bằng chính sự hiến dâng thân xác của mình, để từ nay đưa con người vào sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, phá bỏ mọi gánh nặng của lề luật trói buộc con người.
          câu 19 Thánh sử viết: “Ai bãi bỏ luật là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân giữ và dạy người khác thì gọi là lớn trong Nước Trời”. Vì sao vậy? Vì luật là ý muốn của Thiên Chúa. Ai nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được gọi là mẹ, anh em, chị em của Chúa Giêsu (Lc 8,,21). Và môn đệ chân chính là người thi hành ý muốn của Chúa Cha. (Mt 7,21). Chúa Giêsu còn đưa ra ví dụ dẫn chứng về việc nghe và thực hành Lời Chúa qua dụ ngôn: xây nhà trên cát hoặc trên đá và hậu quả sự khác nhau đó sẽ xảy ra khi mưa to, bão lớn. ( 7, 24tt).
          Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
          Con người ngày nay thích tìm sự dễ dãi, họ xem Luật Chúa như một gánh nặng cổ hũ. Đây chính là nguyên nhân gây ra biết bao hệ lụy đáng buồn. Trong Sứ điệp Mùa Chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh tỉnh mọi tín hữu đừng để các tiên tri giả mê hoặc, đừng để tình yêu trở nên nguội lạnh, hãy dấn thân sống trọn tinh thần mùa chay. “Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người sẽ bị nguội lạnh” (Mt 24,12). Người ta xa lìa Thiên Chúa để chạy theo những tiên tri giả. Bao nhiêu người trẻ tìm phương được giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính! Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn giản và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! […]
          Vì thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi phân định trong tâm hồn và cứu xét xem mình có bị đe dọa vì những điều giả dối của các tiên tri giả ấy hay không. Cần học cách không dừng lại ở mức độ gần kề, hời hợt, nhưng nhận ra điều để lại trong chúng ta dấu vết tốt lành và lâu bền hơn, vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự có giá trị mưu ích cho chúng ta.

 

Thứ Ba Tuần III Mùa Chay
Đn 3,25.34-43; Mt 18,21-35.
THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA
          Tha thứ không phải là hành động của con người nhưng là hành động được phát xuất từ Thiên Chúa. Nếu với lý trí người phàm, chúng ta có thể đưa ra muôn vàn lý do, những lý luận thuyết phục để biện minh rằng: khó mà tha thứ. Chẳng hạn, làm sao chúng ta có thể tha thứ khi người khác làm hại chúng ta, rồi lại đến xin lỗi? Phải chăng chúng ta kém cỏi, khờ dại hay nhụt chí mà lại dung túng cho kẻ có tội? Đó là những lý lẽ của con người, còn trong ánh nhìn đức tin thì khác.
          Và rồi mỗi người chúng ta hãy nhìn lên Đức Giêsu Kitô trên thập giá. Dù Người đã phải chịu bao sỉ nhục, những đau đớn bởi đòn vọt, những bước chân mệt nhọc lê bước lên đồi Can-vê, những vết đinh cắm sâu vào thân thể,… Người đã chịu tất cả như một người tội nhân, dù Người đã chẳng làm gì nên tội.
          Thế mà trên thập giá, Người vẫn thương yêu và cầu xin Chúa Cha tha tội cho những người đã làm nên những điều ấy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Thật vậy, khi ở trong tương quan với Chúa, chúng ta chỉ là những tội nhân trước mặt Người, có một vị Thánh đã khẳng định: khi càng ở gần Chúa bao nhiêu, chúng ta lại càng thấy mình tội lỗi bấy nhiêu. Nhưng thật kỳ diệu! Chúng ta luôn được sống trong tình yêu và ân sủng của Người, nhờ hồng ân tha thứ vẫn còn được tiếp diễn qua bí tích Hòa Giải. Chúng ta luôn được Người ấp ủ, yêu thương và tha thứ: “tội lỗi các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông (Is 1, 18)”.
          Trong Bài Tin mừng, vị Thẩm phán được diễn tả như một vị vua và với cách gọi “tôn chủ”, thể hiện người đáng kính trọng và là một người liêm khiết. Vị tôn chủ đã chạnh lòng thương trước lời van xin của người đầy tớ và sẵn sàng tha cho hắn món nợ rất lớn là mười ngàn yến vàng. Chúng ta nhớ đến bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế (x. Mt 25,31-46). Lúc đó, vị thẩm phán cũng được gọi là “Đức Vua” xét xử người lành cũng như kẻ dữ, tuỳ theo việc họ đã làm khi còn sống trên dương gian. Trước đó, vị thẩm phán cũng được dùng với danh xưng “Con Người”.  “Con Người” hay “Con loài người” là danh xưng chính Chúa Giêsu đã dùng để chỉ bản thân Người. Như thế, vị thẩm phán sẽ xét xử loài người là chính Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
          Hình ảnh vị tôn chủ trong Tin Mừng hôm nay cho thấy đó là vị Thẩm phán vừa công bằng vừa bao dung nhân hậu. Vị thẩm phán ấy chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con người và sẵn sàng tha thứ nếu người ấy khiêm tốn kêu xin. Tuy vậy, ngài cũng nghiêm khắc với kẻ gian manh, chỉ biết khúm núm trước người chủ nợ, mà lại táng tận lương tâm đối với bạn hữu đang mắc nợ mình chỉ có một trăm quan tiền, trong khi món nợ mình được tha có giá trị gấp nhiều lần.
          Nếu Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân hậu, thì những ai tin vào Ngài cũng phải khoan dung nhân hậu như thế. Những ai cố chấp, hận thù và ích kỷ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Người đầy tớ có trái tim chai đá trước lời van xin của tha nhân bị ông chủ kết án là đồ gian ác. Hơn thế nữa, anh ta phải vào tù và phải trả món nợ trước đây ông chủ đã có ý tha, vì thấy anh ta đáng thương và vì lời van xin thống thiết. Trong thực tế, con người dễ hạ mình trước mặt Thiên Chúa, nhưng lại xảo trá và mưu mô đối với đồng loại. Lời kết câu chuyện của Chúa Giêsu cũng là tóm lược lời kinh Lạy Cha: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
          Và đây cũng là nội dung của Bài trích sách Huấn Ca: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Bài đọc I). Bao dung nhân hậu, tha thứ yêu thương. Đó là cốt lõi của giáo huấn Kinh Thánh, nhất là trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hãy tha thứ vì con người sống trên trần gian đều là bất toàn. Khi tha thứ, ta mở cho người khác một con đường hướng tới tương lai. Giáo huấn Kitô giáo còn khẳng định: khi tha thứ là ta được thứ tha; khi cho đi ta sẽ nhận lãnh. Tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, sự thanh thản và yêu đời. Người Việt Nam chúng ta thường nói” đời có vay có trả”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Có người bức xúc vì thấy kẻ gian ác cứ sống nhơn nhơn, bất chấp đạo lý luân thường, ấy vậy mà họ vẫn giàu có hoặc may mắn. Nếu họ chưa phải trả giá cho sự gian ác họ đã gây ra cho người khác, là vì chưa đến thời đến buổi đó thôi, vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát”, như cổ nhân đã dạy.
          Tha thứ thật sự không phải là khả năng của con người nhưng là của Thiên Chúa. Vậy, muốn tha thứ cho người anh em, ta hãy nài xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức. Đức Giêsu kể cho ta dụ ngôn: “Tên đầy tớ không biết xót thương” là để nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trước mặt Thiên Chúa nhân từ, ta luôn là một tội nhân. Món nợ ta mang đối với Ngài còn lớn hơn rất nhiều so với món nợ tha nhân nợ ta. Nhưng sự thật, dù món nợ ấy lớn tới đâu, chỉ cần ta biết ăn năn hối cải quay về và nài xin lòng thương xót của Chúa, ta sẽ được tha. Vậy, đến lượt ta, ta cũng hãy tha cho người anh em của ta như Thiên Chúa đã tha cho ta. Sở dĩ tên đầy tớ trong dụ ngôn bị hành hạ cho đến khi trả xong nợ là vì hắn đã vội quên ngay ân huệ vừa nhận được mà xử với người anh em theo cách của hắn, dù món nợ ấy chẳng đáng bao nhiêu. Ta đừng xử sự như tên đầy tớ ấy nhưng hãy xử sự như con cái Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ cho ta.
          Để có thể tha thứ, thiết nghĩ, trước tiên ta phải ý thức đầy đủ về thân phận tội lỗi của mình. Khi nhìn về lỗi lầm của người khác, ta cần nhìn về lỗi lầm của ta. Trước mặt ta, họ là tội nhân, nhưng trước mặt người anh em khác, có khi ta cũng mang thân phận ấy. Lúc này họ phạm đến ta, nhưng khi khác ta lại lỗi phạm đến người khác. Bây giờ, họ cần được ta tha thứ, khi khác ta lại là người cần được tha thứ. Có ai tự tin để nói rằng mình chưa một lần làm mất lòng người khác. Bởi vậy, sách Huấn ca có dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28, 2). Nếu ta cố chấp trong những suy nghĩ, quan điểm của ta để rồi mang lấy oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, ta sẽ là người thiệt hại (x.Hc 27, 30). Chẳng ai mang “cục tức” trong lòng mà có thể vui sống bình an. Lại nữa, tha thứ cho kẻ khác là điều kiện để ta được Thiên Chúa  thứ tha.

 

Thứ Hai Tuần III Mùa Chay
2 V 5,1-15a; Lc 4,24-30.
BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG
          Thánh Gioan Thiên Chúa, lúc đầu có tên là Gioan Cidade, sinh vào khoảng năm 1495, tại làng Montermor O-novo. Cha là ông An-rê và mẹ là bà Tê-rê-xa. Năm lên tám tuổi, cậu theo một người khách lạ lưu lạc qua Tây Ban Nha. Khi đi đến vùng Oropesa, cậu bị bỏ rơi, và được gia đình ông François de Majoral nhận về nuôi dạy.
          Gioan đã kinh qua nhiều ngành nghề trong đời như đi chăn súc vật, đi làm mã phu, hai lần đi lính (một lần đánh chiếm lại Fontarabia và một lần đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Vienne), đi đắp thành ở Châu Phi, đi bán tranh ảnh, sách báo và bán củi ở Grenade.
          Ngày 20.1.1539, anh được ơn biến đổi tâm hồn. Bài giảng của linh mục Gioan d’Avilla trong thánh lễ kính thánh Sébastiano tử đạo nói về sự nguy hiểm của tội lỗi và lòng xót thương của Thiên Chúa, đã làm Gioan cidade bị xúc động mạnh đến độ thần kinh bị kích động giống như những người bị điên lên cơn, và vì thế người ta đã đưa anh vào bệnh viện tâm thần Hoàng Gia Tây Ban Nha.
          Vì chỉ là bị giao động thần kinh, nên sau vài ngày thì anh ổn định trở lại. Nhưng anh đã xin được ở lại bệnh viện độ ba tháng để giúp đỡ các công việc vặt và trò chuyện, chăm sóc cho các bệnh nhân. Sau đó anh xin xuất viện, và vì được sự chỉ dạy của cha linh hướng - linh mục Gioan d'Avilla, vào tháng 10 năm đó, anh đi hành hương Đức Mẹ Guadaloupe. Trong thời gian hơn một tháng ở Guadaloupe anh đã tranh thủ đi học cách tổ chức bệnh viện cũng như chăm sóc bệnh nhân với các tu sĩ dòng Hiêrônimô.
          Trở về từ trung tâm hành hương kính Đức Mẹ nổi tiếng đó, tháng 12. 1539, Gioan bắt đầu thành lập một phòng khám đầu tiên tại phố Lucena, đúng ra thì đó chỉ là một ngôi nhà cho những người nghèo khổ, bệnh tật không có chỗ nương thân đến trú ngụ, và khi những bệnh nhân do chính Gioan đưa về hay tự họ tìm đến ngôi nhà này, thì việc đầu tiên Gioan làm là tắm rửa cho họ, băng bó những vết thương bị lở loét... Thấy công việc của anh tốt đẹp, đức cha Ramirez, giám mục thành Tuy đặt tên là Gioan Thiên Chúa, và vì anh có cái áo nào lành đều cởi cho người đói rách, nên đức cha cho anh mặc một loại áo giống như áo nhà tu và làm phép áo đó để anh không còn cho người khác.
          Nhờ sự giúp đỡ của đức cha Ramirez, đức tổng giám mục Grenade và nhiều ân nhân, nên Gioan Thiên Chúa có điều kiện mở thêm những nhà khác và đi tìm kiếm và đón tiếp nhiều người đau khổ, bất hạnh. Thánh Gioan Thiên Chúa qua đời ngày 8.3.1550, do bị cảm lạnh nặng bởi trước đó mấy tuần ngài đã cố gắng lao mình xuống dòng nước buốt giá trong khi sức khỏe đã suy yếu, để cứu một thanh niên đi với củi với ngài bị lỡ chân rớt xuống sông Génil.
          Đức giáo hoàng Alexandro tôn phong Gioan Thiên Chúa lên bậc hiển thánh vào ngày 16.10.1690, và đức Lêô XIII đặt ngài làm bổn mạng các bệnh nhân và các bệnh viện công giáo vào ngày 22.6.1886 ; và cùng với thánh Camilo de Lellis, được đức giáo hoàng Piô XI đặt làm đấ
          Người Do thái trong hội đường Nazareth đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của những người này. Nhưng kỳ thực trong cuộc sống, lắm lúc chúng ta đã sao chép lại nguyên bản việc làm ấy: tự hào là người Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ là ngọn đèn leo lét chực tắt trước gió. Chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Ðây là một thứ niềm tin mà Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắc nhở:
          "Nhiều người nói: "Tôi có đức tin, tôi còn đức tin". Có lẽ đức tin là đức tin của giấy khai sinh, không phải là đức tin của đời sống. Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin hình thức và lý thuyết. Nhưng con phải sống một đức tin chân thật và trung thành. Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận, khiến người Do thái đã mất Chúa Giêsu, nền tảng của niềm tin, Ðấng mà họ đang ngóng chờ".
          Cũng thế, Kitô hữu nếu chỉ đóng khung trong những nghi thức, tuân giữ luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa rời đức tin là nguồn mạch sự sống. Vì sống là gì, nếu không là một sự thay đổi luôn luôn. Con người sẽ chết khi một hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hay hệ thần kinh không vận động. Ðối với đức tin cũng vậy, luôn luôn đòi hỏi một sự trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
          Nếu đối với người Kitô hữu, tin trước hết là được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng. Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến, nhưng Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô cùng. Nắm được đức tin, con phân biệt đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế gian. Tin là chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài.
          Lời Chúa ngày hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra hai thái độ khi giải quyết một vấn đề cần, mà vấn đề ấy đụng đến một sự thật : - Trước hết là thái độ của đám đông : đám đông đã không chân nhận sự thật, lấy phản ứng của số đông để phủ nhận sự thật và tấn công số ít... Sau là thái độ của Chúa Giêsu : Ngài bình tĩnh bước đi, vượt qua dư luận, mạnh mẽ và tự tin khi sống bằng sự thật.
          Thái độ thứ nhất là thái độ của đám đông, một điều hiển nhiên thấy được qua bối cảnh của đoạn Tin Mừng này, rằng “số đông không phải là chân lý”. Những người lãnh đạo tầm thường thì lấy số đông để chứng minh chân lý. Chúa Giêsu đã không làm thế, dọc suốt hành trình sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã nhiều lần chứng minh cho mọi người thấy “số đông không phải là chân lý” : Câu chuyện trong Tin Mừng (Mt 21,12) miêu tả, người ta đem mọi thứ vào đền thờ để bán trong dịp lễ, một mình Chúa Giêsu đã đánh đuổi họ ; Dịp khác, trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 8,1-11), khi người ta định ném đá người phụ nữ ngoại tình, một mình Chúa Giêsu bênh vực ; Trước dinh Philatô trong việc xứ án Chúa Giêsu (Ga 18,28-40), một mình Ngài thua thiệt, dùng mạng sống để bảo vệ chân lý toàn vẹn...
          Và hôm nay, trước vấn đề Chúa Giêsu trình bày qua định đề : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, và hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại ; “số đông không hề có chân lý”, họ nổi đóa và tìm cách xô Chúa xuống vực, họ phản ứng theo cảm xúc bên ngoài mà không dựa vào chân lý. Quả là phi lí khi giải quyết vấn đề dựa vào uy thế, phản ứng, và câu trả lời của “số đông”, trong khi “Số đông không phải là chân lý”.
          Thái độ thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu, thái độ đáp trả lại đám đông bằng cách “băng qua giữa họ mà đi”. Tin Mừng đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, làm sao Chúa Giêsu lại có thể “băng qua giữa họ mà đi” đang khi họ “phẫn nộ”... Chúa Giêsu đã mạnh dạn bước trên dư luận, Ngài không bận tâm phản ứng lại đối phương khi họ đang tức giận. Ngài tự tin vì Ngài giữ bên mình một sự thật toàn vẹn. Ngài không cần phản ứng để bảo vệ sự thật, vì sự thật là chính nó, sự thật tự nó đứng vững và sự thật là toàn vẹn.
          Và Nếu mỗi chúng ta sống với sự thật, nếu mỗi chúng ta có sự thật trong lòng, chúng ta có thể như Chúa Giêsu, có thể bước qua bất kỳ đám đông nào và băng qua bất cứ phản ứng thắc mắc nào, để hiên ngang bước đi.
Huệ Minh

 

Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mùa Chay

2 V 5:1-15; Tv 42:2-3; Lc 4:24-30

VỮNG BƯỚC TRONG SỰ THẬT

Trang Tin Mừng hôm nay nằm trong văn mạch nói về việc rao giảng của Chúa Giêsu tại miền Galilê- quê hương xứ sở của Ngài. Não trạng của người Do Thái không chấp nhận hình ảnh về một Đấng Messia như Chúa Giêsu đang khắc họa, một Đấng Messia có nguồn gốc xuất thân từ quê hương của họ. Họ đinh ninh rằng chỉ mình họ là dân riêng của Thiên Chúa, họ không tin nhận ơn cứu độ sẽ dành cho dân ngoại.

Sau khi mọi người lắng nghe, thán phục, tôn vinh Chúa Giêsu, thì  ngay lặp tức họ liền bàn tán xôn xao về thân thế sự nghiệp của Ngài. Ý chính của bài Tin Mừng Luca 4, 24-20 nói lên việc dân làng từ chối tiếp nhận Lời Ngài, nói rõ hơn họ từ chối chấp nhận con người của Ngài và phản ứng của Chúa Giêsu trước sự chai lỳ cứng lòng của họ.

Người Do thái trong hội đường Nazareth đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của những người này. Nhưng kỳ thực trong cuộc sống, lắm lúc chúng ta đã sao chép lại nguyên bản việc làm ấy: tự hào là người Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ là ngọn đèn leo lét chực tắt trước gió. Chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gẫy đổ

Chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Lời tựa của Tin mừng Gioan ghi rằng “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11), buồn thay đã được minh họa nơi dân chúng tại Nagiarét, nơi Đức Giêsu lớn lên. Họ tức giận khi nghe Đức Giêsu nhắc đến sứ điệp về lòng quảng đại của Thiên Chúa trải rộng đối với lương dân, và họ muốn giết Ngài.

Biến cố này chuẩn bị cho chúng ta việc chính dân riêng của Chúa khước từ Đức Giêsu sẽ xảy ra tại Giêusalem. Đức Giêsu đã đau khổ nhiều vì những lần bị khước từ trong cuộc đời rao giảng của Ngài.

           Khởi đầu câu 24 là một nhận định của Chúa Giêsu khi thấy dân làng mình xầm xì bàn tán “Tôi bảo thật, không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” lời nhận định này nói lên một kết quả “đau thương” mà bất cứ một vị ngôn sứ nào cũng phải trải qua. Ông bà ta có câu “Gần chùa gọi bụt bằng anh” hoặc “Bụt nhà không thiêng” cũng mang ý nghĩa tương tự. Vì sao ngôn sứ không được chấp nhận?

Chúa Giêsu lên tiếng giảng giải cho họ bằng một định đề và hai ví dụ minh họa. Ngài nêu định đề trước : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Rồi Ngài lấy hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại đó là bà góa thành bà goá thành Xarépta miền Xiđon và ông Naaman người xứ Xyria. Định đề và hình ảnh minh họa này đã làm cho đám người Do Thái khó chịu. Họ bực tức vì Chúa Giêsu đã khen dân ngoại ngay trước mặt họ, họ cảm nhận như thể dân ngoại đã được Thiên Chúa ưu đãi hơn chính họ. Họ đã phản ứng, và cách họ phản ứng thật đáng cho chúng ta quan tâm : Họ “đầy phẫn nộ”, “lôi Người ra khỏi thành”, “kéo Người lên tận đỉnh núi”, “để xô Người xuống vực”... Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”.

          Có lẽ vì ngôn sứ nói lời của Chúa, chứ không chiều theo sở thích toàn dân. Có lẽ vì người ta thường nhìn đến thân thế, dòng họ hơn là tài năng Thiên Chúa ban cho con người. Họ có định kiến từ trước, một lập trình có  sẵn trong tư tưởng “Người này không phải là con bác thợ mộc, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse , Simon và Giuđa sao?” (Mt 13, 55).

Có lẽ họ biết Chúa Giêsu rất rõ bằng con mắt trần thế, nên họ “Bị mù” về con mắt thiêng liêng khi không nhận ra vị tiên tri cao cả đang ở với họ. Vì thế Chúa Giêsu đã nói thẳng, nói rõ cho họ về cách đồi xử của dân làng đối với một vị ngôn sứ, chứ Ngài không xác định mà chỉ là ám chỉ Ngài là vị ngôn sứ đang bị chính dân làng, bị chính dân tộc Israel ruồng bỏ.

Để xác minh cho vấn đề mình đưa ra, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hai ví dụ cụ thể trong Cựu Ước nói lên sự cứng lòng của dân Israel và Thiên Chúa đã quay lưng với họ. Ngài chúc lành cho dân ngoại là những người tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa.

           Câu 26, Chúa Giêsu dẫn chứng về truyện ngôn sứ Êlia đã cứu sống bà goá thành Xa-rép-ta và đứa con trai của bà (1v 17, 7-24 ). Bà goá dân ngoại này đã nhận ra Êlia là vị ngôn sứ của Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Bà đã tin và làm theo lời ông Êlia truyền dạy và bà được tưởng thưởng xứng với lòng tin của bà. Câu 27 nói về việc ông Na-a-man, một tướng chỉ huy quân đội của Vua A-ram được chữa lành. Ông là người dân ngoại bị mắc bệnh phong cùi. Ông được khỏi bệnh vì ông đã lắng nghe đầy tớ đề nghị, khuyên răn ông làm theo lời của Ngôn sứ Êlia. Ông thay đổi cái nhìn, hoán cải nội tâm và ông được chữa lành (2V 5,1-14 ).

Chúa Giêsu đứa ra 2 điển tích trên như một lời cảnh tỉnh lòng dân miền Galilê. Thiên Chúa sẽ thương xót và ban ơn cho những ai thành tâm kêu cầu Ngài, mặc dù người đó không phải là dân Ngài tuyển chọn (dân Israel) không phải là dân được cắt bì hay tuân giữ luật Mô-sê.

             Phản ứng của người dân Galilê thế nào khi đứng trước những lời tố cáo, vạch trần bộ mặt thật của Chúa Giêsu đối với họ?. Trong câu 28 và 29, Thánh sử Luca đã nêu rõ những hành vi đầy giận dữ của họ: “phận nộ”, “lôi ra”,  “kéo lên” “xô xuống”, toàn là những hành động biểu lộ thái độ đầy ác tâm. Họ muốn khai trừ Chúa Giêsu chỉ vì Ngài quá biết rõ họ. Phản ứng bên ngoài để lộ tâm tà ác ý bên trong. Nếu tâm của họ tốt, ý của họ lành... thì họ đã kịp ăn năn sám hối, nhận ra lỗi lầm trước lời cảnh báo của Chúa Giêsu. Nhưng ở đây họ biểu lộ thái  độ căm phẫn, muốn loại trừ con người đã biết, đã lên án tâm địa mưu mô của họ.

Đứng trước phản ứng của dân làng, Chúa Giêsu có thái độ rất bình tĩnh. Ngài như đoán trước điều sẽ xảy ra, nhưng “Giờ” chưa đến, Ngài  chưa thể chết khi sứ mệnh chưa hoàn thành. Ngài không thể chết ngoài thành Giêrusalem. Như lời tiên báo của các ngôn sứ. Ngài hiên ngang đi qua giữa họ (c 30). Một thái độ không xao động, không nao núng trước những chống đối có “bạo lực” của dân làng.

              Đó là phản ứng của Chúa. Đó là lối hành xử của người dân làng Galilê. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào trước những lời góp ý “tận gốc” của anh chị em, trước những sửa dạy của người có trách nhiệm trên ta? Hoặc trước những lời khen, chê , mỉa mai, thậm chí có khi mang tính chống đối, loại trừ của anh em đồng loại?  Hãy nhìn lên Đức Kitô, một Đức Kitô  chịu đóng đinh, một Đức Kitô đội mão gai, chịu đánh đòn, chịu xỉ nhục mắng nhiếc. Ngài vẫn bình tĩnh đón nhận, thậm chí còn cầu nguyện cho những kẻ làm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. ( Lc 23,34)

Chúa Giêsu đã mạnh dạn bước trên dư luận, Ngài không bận tâm phản ứng lại đối phương khi họ đang tức giận. Ngài tự tin vì Ngài giữ bên mình một sự thật toàn vẹn. Ngài không cần phản ứng để bảo vệ sự thật, vì sự thật là chính nó, sự thật tự nó đứng vững và sự thật là toàn vẹn. Nếu mỗi chúng ta sống với sự thật, nếu mỗi chúng ta có sự thật trong lòng, chúng ta có thể như Chúa Giêsu, có thể bước qua bất kỳ đám đông nào và băng qua bất cứ phản ứng thắc mắc nào, để hiên ngang bước đi.

 

Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mùa Chay

Đn 3:25,34-43; Tv 25:4-5,6-7,8-9; Mt 18:21-35

THA THỨ LUÔN LUÔN

Câu chuyện nước trời là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Món nợ ân sủng, nợ tình yêu mà ta lãnh nhận từ Thiên Chúa làm sao có thể trả nổi. Từ khi thành hình bào thai trong lòng mẹ ta đã mắc nợ rồi - một món nợ tình, nợ ân. Mười ngàn nén vàng là bao nhiêu! Một trăm quan tiền là bao nhiêu! Thế nhưng cuộc sống con người vẫn mãi ích kỷ, so đo tính toán, bởi vì lòng người chai đá không cảm được ân  tình Thiên Chúa, không biết xót thương anh em.

Sống trong xã hội ngày nay, dường như người ta cho rằng lòng tha thứ là một sự yếu kém, ủy mị, nhu nhược ! Ðã có biết bao thảm họa, bi kịch diễn ra mỗi ngày chỉ vì sự trả thù, "ăn miếng trả miếng". Dường như đó là "lẽ công bằng" của cuộc đời ? Là "đấu tranh sinh tồn" ? Thực không dễ dàng gì để thực hiện mệnh lệnh tha thứ này.

Thật thế, để trở thành môn đệ Ðức Giêsu, chúng ta phải tha thứ, phải "chín bỏ làm mười" ; vì đó là một trong những điều tất yếu làm nên đời sống Kitô giáo; vì đó là điều ta phải thực thi trước khi cầu nguyện "xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc lỗi với chúng con". Nói cách khác, nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho mình thế nào, thì chúng ta phải biết tha thứ cho người khác như vậy.

Vâng, từ khi là bào thai ta đã mắc nợ; nợ cưu mang chín tháng với bao trìu mến yêu thương ấp ủ Thiên Chúa chuyển trao qua mẹ cha. Mở mắt chào đời, mối ân tình bao bọc vây quanh còn lớn hơn nữa; Bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa vẫn tiếp tục nâng bước đời sống con người: cả bầu vũ trụ vạn vật như những đầy tớ siêng năng, cần mẫn phục vụ, tặng ban cho ta tinh hoa đất trời, tinh hoa con người cho ta được lớn lên thành người, thành con Thiên Chúa. Món nợ ta mang là món nợ tình nên chỉ có thể trả được bằng nghĩa yêu thương. Thiên Chúa đã muốn như thế, vì Ngài đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài có tự do, lý trí và có trái tim yêu. Nhưng tình Chúa mênh mang là thế, còn tình người cho biếu được bao nhiêu?!

Mười ngàn nén vàng – một trăm quan tiền – một so sánh tuy rất sơ tạm nhưng cũng cho thấy một lên tới trời, một ở dưới đất. Nhưng tình vốn dĩ là cho không biếu không: “Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (c.27). Thiên Chúa đã tha thứ tội nợ cho chúng ta; và tình yêu vốn dĩ thể hiện cao nhất ở khả năng tha thứ. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô chúng ta được tẩy sạch muôn vàn tội lỗi: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1,7).

Ta nên nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (x. Rm 5,8). Thế có lý do nào miễn cho chúng ta xót thương người anh em? Thế nhưng có câu ‘tình đời bạc đen’. Con người vẫn cứ mê lầm lẩn quẩn trong vòng hỷ, nộ, ai, ái, ố, dục, cụ.

Và người ta cứ thích lấy cái rơm trong mắt người anh em hơn cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3 -4). Vì thế, chúng ta sẵn sàng tính sổ với anh em vì một món nợ nhỏ mà không hề mảy may nghĩ đến mình đã được tha một món nợ khổng lồ cách nhưng không. Tên đầy tớ trong dụ ngôn xem ra có vẻ bạc ác, phi lý; nhưng đó lại là thái độ của mỗi người chúng ta.

Dụ ngôn thật thâm thúy, có tính giáo dục cao, nó giống như vở bi hài kịch; nhưng thực tế trong cuộc sống, mấy ai nhận ra được mình đóng một vai diễn chính gây phẫn uất trong đó. Chúng ta sẵn sàng vung dao khi người anh em làm chúng ta xây xát. Chúng ta sẵn sàng đạp người anh em xuống bùn đen, khi họ lỡ làm lòng tự trọng cuả chúng ta bị tổn thương…. Chúng ta thích bắt bẻ người anh em những lỗi lầm mà chính chúng ta vẫn thường khi mắc phải. Và chúng ta thích ngồi chiếc ghế thẩm phán hơn là chiếc ghế của bị cáo.

Mùa chay, mùa của kiểm điểm, sám hối ăn năn. Mỗi người chúng ta ai cũng mong mình được Thiên Chúa tha thứ tội nợ. Ngài đã tha thứ tội nợ cho chúng ta, nhưng việc chúng ta tha thứ cho anh em mình là một hành động mở rộng tấm lòng để ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đổ vào tâm hồn chúng ta.

Tha thứ - một hành vi không dễ dàng - Chỉ khi nào có trái tim yêu đích thực người ta mới có thể tha thứ thực sự không tính toán. Hãy lặng thinh, nhìn lên chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tuy chịu nhục hình vẫn nói lời tha thứ cho kẻ giết mình, để xin Thiên Chúa hoán cải lòng chúng ta; xin Chúa “cất khỏi mình chúng ta quả tim chai đá và ban tặng cho chúng ta quả tim biết yêu thương” (x.Ed 36,26) để chúng ta có thể tha thứ như lời Thầy Giê-su đã dạy – tha bảy mười lần bảy, tha không giới hạn.

Chúa Giêsu truyền phải tha thứ lẫn cho nhau. Cũng như tình yêu, sự tha thứ này phải vô giới hạn. Chính nhờ vậy, con người trở thành hình ảnh của Thiên Chúa-Tình yêu (chứ không phải của Thiên Chúa-Thẩm phán), và nhờ đó được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, là hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng trong trật tự tình yêu. Ðây cũng là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa mà Ðức Giêsu có sứ mạng tái lập nơi con người.

Một tấm lòng bao dung thật khó kiếm. Bởi thế, mời gọi sự tha thứ đến tận cùng, thánh Mathêu muốn vẽ lên hình ảnh Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Ân sủng Người vượt quá mọi ước tính và trí tưởng tượng. Nếu biết điều, con người phải có một thái độ hợp lý. Bài học hôm nay đòi con người phải có một cái nhìn sâu xa vào chính nguồn ân sủng của Thiên Chúa nơi chính mình. Không có đức tin, không thể biết tại sao phải tha thứ cho anh em. Tha thứ là một điều kiện cần thiết để không bị hụt mất những ân sủng lớn lao.

 

Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mùa Chay

Đnl 4:1,5-9; Tv 147:12-13,15-16,19-20; Mt 5:17-19

LUẬT YÊU THƯƠNG

           Nhìn vào xã hội chúng ta đang sống cũng có biết bao nhiêu thứ luật lệ. Thật vậy, luật lệ được đặt ra nhằm đảm bảo cũng như phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người. Nhưng ngày nay cũng có những điều luật phá vỡ tình người, làm băng hoại đạo đức và đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa như: cho phép ly dị, phá thai, hay chấp nhận hôn nhân đồng tính…

Giáo hội không đồng tình với những đạo luật này. Là những người Kitô hữu, chúng ta có chọn đứng về phía Giáo Hội? Chúng ta có thấy những luật lệ của Giáo hội làm mất sự tự do của chúng ta chăng? Luật giữ ngày Chúa nhật hay luật hôn nhân Công giáo có làm mất đi sự thoải mái của chúng ta trong cuộc sống không? Thái độ của chúng ta trong việc thực thi những điều luật này như thế nào?

Luật Môsê và lời các ngôn sứ là những điều cốt yếu trong Thánh Kinh, nhằm biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa, đó là những điều rất cao cả và quan trọng, là thước đo lòng yêu mến của con người đối với Thiên Chúa, là tiêu chuẩn của sự thánh thiện, là con đường đi tới ơn cứu độ. Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu làm sáng tỏ những chiều kích ấy, và Ngài làm cho nó nên trọn hảo, có ý nghĩa chân thực đúng thánh ý Thiên Chúa hơn. Nhờ đó, chúng ta tuân giữ giới luật của Thiên Chúa có giá trị mới mẻ đúng Tin Mừng hơn.

Luật mà Chúa Giê-su đề cập ở đây là Luật của Thiên Chúa ban cho Mô-sê trên núi Si-nai, là Mười Điều Răn. Luật này tóm gọn luật luân lý tự nhiên được Thiên Chúa đặt để trong lương tâm mỗi người, vì thế, Luật này có giá trị muôn thuở, tuyệt đối và đòi buộc tất cả mọi người. Mọi xáo trộn trong các mối tương quan đều do không tuân giữ Luật này. Người Do Thái tưởng Chúa Giê-su đến loan báo một Thiên Chúa nào khác và một thứ luật xa lạ. Nhưng không, Thiên Chúa mà Giê-su loan báo là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp và Lề Luật Ngài kiện toàn là Lề Luật Thiên Chúa ban.

          Đối với Ngài, điều cốt yếu để sống Luật Chúa trọn hảo là thi hành Luật với tình yêu, vì tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn: mến Chúa, yêu người (Mt 22,40). Nơi Chúa Giê-su, tình mến Chúa và yêu người được diễn tả trọn hảo. Ngài là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người và là tình yêu của con người phải có dành cho Thiên Chúa. Nếu tình yêu là chìa khóa kiện toàn Luật, thì Luật đã được kiện toàn trong Chúa Giê-su.

Hẳn ta còn nhớ Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bải bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bải bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Lời nói ấy Chúa Giêsu có ý biểu lộ mối tương quan và lập trường của Ngài đối với toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước.

Thiên Chúa của chúng ta không phải là con người bảo thủ, cứng nhắc, Ngài cũng không chủ trương cách mạng, thay đổi tất cả nhưng là kiện toàn. Chúa Giêsu đem lề luật đến chỗ thập toàn, đạt được ý nghĩa tròn đầy, đích thực và cánh chung, đúng ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: “Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo…” như vậy, chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là người lập luật cao hơn Môsê, và Ngài đưa luật về sự tinh tuyền nguyên thủy với những yêu sách trước tiên nơi lòng dạ chính trực của con người. Chúa Giêsu đưa ra vài sự kiện điển hình: Ngài không chỉ kết án tội sát nhân, mà còn những tình cảm trong lòng dẫn đến tội sát nhân, có mức độ tăng dần như nóng giận rồi mắng nhiếc, chửa rủa và án phạt tương ứng tăng dần từ địa phương đến Thượng Hội Đồng, và đến lửa hỏa ngục.

Khi nói đến tội ngoại tình, Ngài nói: Ai nhìn người nữ mà có lòng thèm muốn thì đã phạm tội rồi. Ngài còn đi đến mức dứt khoát: “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi phạm tội thì hãy múc nó đi, nếu là tay, là chân thì hãy chặt nó đi”. Chúa cũng phân định luật yêu thương là luật cao hơn mọi luật khác. Do đó chúng ta thấy có một sự nối tiếp và nên trọn từ Cựu Ước sang Tân Ước.

Nhờ đó luật đem lại lợi ích tối đa cho chúng ta là những người tuân giữ luật cách trọn vẹn như Chúa Giêsu đã nói: “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong luật cũng sẽ không qua đi cho đến khi mọi sự được hoàn thành”, tức là đến lúc Chúa Giêsu thiết lập một trật tự mới. Chúa Giêsu còn đặt để cho luật có một giá trị siêu nhiên: “Ai giữ và dạy người khác như thế, là người lớn trong nước trời”.

Giữ và dạy bằng chính cuộc sống của mình, giữ trọn là giữ cả trong cuộc sống và việc làm, giữ các điều lớn, và điều nhỏ cũng không được bỏ qua, giữ luật và tập các nhân đức nữa. Giữ với tinh thần mới mẻ là đặc quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm, giữ luật Tân Ước vượt qua Cựu Ước sâu xa khi người Kitô hữu đặt mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa, chứ không phải là cái nhìn của con người.

Làm một người Kitô hữu, chúng ta phải sống trọn vẹn tinh thần của luật Tin Mừng, để làm chứng cho nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, và diễn đạt thánh ý Thiên Chúa qua chính đời sống của mình như là con người của Nước Trời. Khi chúng ta giữ luật Tin Mừng cách trọn hảo đầy đủ, chúng ta làm chứng cách hùng hồn hiệu quả và giá trị của Tin Mừng, chúng ta được trở nên hoàn thiện, nói lên lý tưởng và cùng đích cuộc sống của chúng ta. Chúng ta phải tuân giữ luật Chúa với lòng yêu mến Chúa và tôn trọng luật, vì đó là thánh ý của Chúa. Chúng ta giữ luật không chỉ với mục đích thánh hóa bản thân, mà còn mang ý hướng tông đồ là nêu gương và dạy cho người khác bằng chính đời sống của mình. Trong tâm tình và ý hướng của mùa chay, chúng ta duyệt xét và chỉnh đốn cách giữ luật và tâm tình giữ luật của chúng ta, để chúng ta chỉnh đốn lại hầu đạt được con người mới, con người của Tin Mừng, con người của ơn cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa đã khẳng định một cách rõ ràng rằng Ngài đến không phải để hủy bỏ nhưng để kiện toàn lề luật. Chúa Giêsu đến dạy cho con người biết tình yêu là giá trị và quy luật cao cả nhất của cuộc sống. Chỉ khi có tình yêu thì lề luật mới làm cho con người cảm thấy tự do đích thực. Ngài dạy chúng ta biết giữ luật không phải vì bổn phận nhưng là vì lòng mến. Chúng ta phải giữ luật theo ý hướng của Chúa Giêsu thì mới trở thành công dân Nước Trời.

Ta sẽ chu toàn các giới răn chỉ khi chúng ta vâng giữ bằng tình yêu, vì Chúa Giêsu đã tóm gọn lề luật này cho chúng ta trong lệnh truyền: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi và phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 30-31).

Với tất cả những điều đó, hãy nhớ rằng kiện toàn các giới răn bằng việc tuân giữ với lòng yêu mến, chứ không phải vì sợ bị trừng phạt và hướng dẫn người khác tuân giữ các giới răn với lòng mến. Khi đó, bạn sẽ được gọi là người lớn nhất trong Nước Trời.

 

Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Chay

Gr 7:23-28; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Lc 11:14-23

ĐỪNG NGOAN CỐ !

Hẳn ít nhiều ta nhớ bài đọc 1, trích trong sách ngôn sứ Giêrêmia (7, 23-28). Với đoạn sách rất ngắn này, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra Phụng vụ Lời Chúa hôm nay phác họa Thiên Chúa như một người cha đau khổ, hiểu rõ tâm tính đứa con ngỗ nghịch, ương bướng mà Người chưa thể uốn dạy.

Thật vậy, trải qua những thăng trầm của lịch sử cứu độ, không chạnh lòng, không xót xa sao được khi dân Israel cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa, ...Ta nhớ lại từ ngày cha ông chúng ra khỏi đất Aicập tới nay, ngày này qua ngày khác, Ta không ngừng sai tất cả các tôi tớ của ta là các ngôn sứ đến với chúng, nhưng chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ... Còn nơi trình thuật Tin Mừng, hẳn cũng sẽ có người ít nhiều bức xúc vì sự ngoan cố đến trơ trẽn của một số người chứng kiến Chúa Giêsu trừ một quỷ câm nhưng đã dám cả gan xuyên tạc, vặn vẹo, thách thức Ngài.

Sự ngoan cố này mội người chúng ta nhớ đến tội chống Thánh Thần (Mt 12, 22-32), tội duy nhất không được tha, không phải vì Chúa không tha, mà vì con người không muốn được tha.

Trong thế giới hiện đại, cám dỗ và tội lỗi được mặc dưới những lớp áo hấp dẫn và lôi cuốn. Nó mời gọi con người qua nhiều cách thức, đánh lừa cảm giác của chúng ta, thậm chí đánh lừa cả lương tâm của chúng ta. Như chị thỏ bông bao lần "tặc lưỡi" cho qua, bao lần cảm thấy bứt rứt lương tâm vì đã lỗi phạm nhưng rồi vẫn tiếp tục con đường sa ngã. Những cám dỗ của vật chất, hưởng thụ, cám dỗ của đời sống tầm thường và dễ dãi đang kéo con người xa dần Thiên Chúa. Chúng ta nhiều khi cũng vô tình "tặc lưỡi" để buông xuôi theo tội lỗi. Đó chính là những lúc chúng ta thỏa hiệp cùng ma quỷ, bội phản lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình.

Tin Mừng cho chúng ta niềm tin Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống, Ngài xua trừ ma quỷ và cứu giúp con người trong mọi cảnh huống. Hôm nay, Ngài trừ một tên quỷ câm, quỷ xuất rồi thì người câm nói được. Nhưng một số người trong đám đông chứng kiến việc Chúa làm thì cho rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ." Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu luôn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền cho những người mà Chúa gặp gỡ, đặc biệt những ai có lòng tin vào Ngài.

Tuy nhiên, không phải lúc nào Ngài cũng nhận được sự tán thưởng của dân chúng mà ngược lại, nhiều khi lại bị người Do Thái phản bác. Mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp nhưng luôn bị người Phariseu phản đối. Dù thế nào, dù con người nhiều khi không đón nhận thì tình thương của Chúa vẫn dành cho họ, Ngài vẫn chữa lành mọi bệnh tật thân xác cũng như tâm hồn cho họ. Và Ngài cũng khẳng định: "Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán ". Dù biết con người chống lại mình và phân tán đấy, nhưng tình thương của Ngài không vì thế mà rút lại, Ngài vẫn hiện diện bên họ và sẻ chia thân phận con người cùng họ.

Thái độ không muốn thể hiện qua việc chối từ đến cùng sự thật mà con người đã thấy, đã biết. Trong khuôn khổ Tin Mừng hôm nay, sự thật ấy chính là Chúa Giêsu có quyền trên ma quỷ, có quyền tha và hằng sẵn lòng tha thứ mọi tội lỗi của con người, nếu con người thành tâm sám hối trở về. Một mặt, điều này không mới lạ, cũng chẳng khó khăn để các Kitô hữu tiếp nhận như một tín điều ; nhưng thực tế đời sống lại cho thấy, đây thật sự là một thách đố mà không phải bất cứ ai đã chịu phép rửa đều có thể vượt qua.

Thay vì thấy phép lạ Chúa Giêsu làm thị thán phục và ca tụng Thiên Chúa thì họ lại cho rằng Chúa Giêsu lấy quyền quỷ cả trừ quỷ con. Chúa Giêsu đưa họ trở về với thực tại là không có nước nào tự chia rẻ được, nước Satan cũng thế và Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ đầy uy quyền mạnh mẽ. Qua việc này Chúa muốn cho họ nhận thấy dấu chỉ Nước Thiên Chúa mà tin nhận Chúa. Mặt khác Chúa Giêsu muốn con người ta chọn Chúa hay không chọn Chúa, không có sự ưỡm ờ, bởi đây là lúc quyết định Nước Thiên Chúa đang đến. Tâm hồn không để chỗ cho Chúa ngự thì chắc là không có Chúa.

Thật thế, giữa vô vàn khó khăn, rắc rối, hãi sợ, lo toan giữa dòng đời, nhiều người trong tôi, bạn và anh chị đã không thể vững tin khi Chúa vẫn im lặng, đã vội tìm giải quyết những rắc rối, vội tìm con đường giải thoát khỏi vòng kiềm tỏa của quỷ ma bằng những phương cách đi ngược lại niềm tin Kitô giáo, đi ngược lại mặc khải của Chúa và giáo huấn của giáo hội. Thậm chí, nhiều người trong chúng ta còn rơi vào tình trạng ngoan cố đáng thương khi để mình vấp phạm bởi thiếu sự hiểu biết cần thiết về cơ chế trong giáo hội hoặc bởi thiếu khả năng phán đoán trưởng thành về gương sống chưa lành mạnh của một bộ phận linh mục, tu sĩ, hoặc tông đồ giáo dân.

Hóa ra để thêm chút tro của lòng sám hối, để thêm chút tình của người con nhận ra mình đã làm phiền lòng cha mẹ quá nhiều, để chứng tỏ sự cương quyết trong việc dứt khoát với tội lỗi, bỏ đàng quanh co mà trở về với Chúa, với Lòng Trời, thiết nghĩ ta cần mở lòng để cho Lời Chúa soi dẫn, chất vấn và mời gọi. Biết đâu ta cũng đang ngoan cố không nhìn nhận những phép lạ lớn nhỏ Chúa hằng thực hiện trong đời ta, biết đâu ta cũng đang chai lì trong những toan tính xấu xa, ...? Chúa thấy rõ lòng ta, Chúa biết rõ những toan tính của ta. Chúa biết ta lỗi tội, Chúa biết ta yếu đuối, Chúa biết ta giả dối,… nhưng Người vẫn không ngừng lên tiếng gọi mời và đón đợi. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là như vậy, Tình của người Cha nhân hậu là như thế.

Và rồi ta thấy Mùa chay đã đi qua nửa chặng đường. Qua tâm tình của Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta thêm xác tín vào lòng xót thương và sự thông biết vô lường của Chúa, để ta thoát khỏi vết xe đổ ngoan cố của tiền nhân. Xin cho ta biết hoán cải và sớm tìm được nẻo về, sớm xoa dịu Lòng Thương Xót của Chúa vốn thổn thức xót đau quá nhiều vì ta.

 

Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Chay

Hs 14:2-10; Tv 81:6-8,8-9,10-11,14,17; Mc 12:28-34

HÃY YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU

Trang Tin Mừng hôm nay tường thuật về cuộc trao đổi thân tình và cởi mở giữa Chúa Giêsu và một kinh sư về một chủ đề thần học rất quan trọng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo.

Câu hỏi được vị kinh sư đặt ra là “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu? tức điều răn nào quan trọng nhất?” Chúa Giêsu trả lời cho ông biết một điều cốt lõi của luật đó là: “Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là Đức Chúa duy nhất. Người phải yêu mến Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”.

Cả hai điều luật này được Chúa Giêsu nhắc lại cho người Do Thái, nhưng thực ra, là lệnh truyền của Thiên Chúa đã dạy từ lâu trong Cựu Ước, qua ông Môsê.

"Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi.. Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi".

Là môn đệ của Chúa, chúng ta hiểu Luật Chúa là giới răn quan trọng, nên đòi buộc chúng ta tuân giữ, sống và thực hành trong đời sống của mình hằng ngày. Vì có sống Luật Chúa mới bảo đảm được vào Nước Thiên Chúa.

“Yêu Chúa và yêu người” là bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Yêu Chúa là yêu hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. yêu Chúa trên hết mà không chia sẻ cho bất cứ thụ tạo nào khác; Luôn đặt Chúa lên trên hết, và đặt Chúa làm chủ của mình; luôn qui phục một mình Ngài, thờ phượng Ngài, vâng phục Ngài.

Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã hạ mình xuống mang thân phận con người để cứu chúng ta khỏi ách tội lỗi và sự chết. Yêu người một cách “sơ sơ” thì dễ nhưng “yêu như chính mình” thì thật khó. Yêu thương những người nổi tiếng, lịch sự, xinh đẹp, giàu có thì dễ, nhưng thật khó biết bao khi yêu thương những người nghèo khổ, dốt nát, người hay gây phiền toái cho ta. Yêu thương những người mang lợi lộc đến cho ta thì dễ nhưng khó mà yêu thương kẻ thù của ta, những người hàng xóm khó tính, keo kiệt, những người nghèo lang thang đầu đường xó chợ…Đòi hỏi của Chúa

Yêu Chúa cũng đòi phải yêu tha nhân. Như Chúa dạy: “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Hẳn ta còn nhớ Đức Khổng Tử cũng khuyên đồ đệ: "Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác". Còn Chúa Giêsu dạy các tín hữu chúng ta thực hành theo hướng tích cực: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12).

Người kinh sư đặt ra một câu hỏi thật xác đáng và Chúa Giêsu cũng đã chỉ rõ điều luật quan trọng nhất đó là “Kính mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Đây là điều răn quan trọng và cũng là điều khó thực hiện. Vì bản tính con người là thích chạy theo tà thần với vẻ hào nhoáng bên ngoài, những vị thần của quyền lực, tiền bạc, dục vọng …có khả năng làm thỏa mãn những nhu cầu của con người.

Ta thấy đòi hỏi của Thiên Chúa có tính quyết liệt, dứt khoát phải tôn thờ Thiên Chúa trọn cả con người với mọi ước muốn thâm sâu trong tâm hồn và thể xác. Con người thường có thái độ “chân trong chân ngoài”, nghĩa là theo Chúa nhưng còn tìm kiếm và chạy theo những vị thần khác.

Những vị thần có hình tướng và cả những vị thần vô hình vô tướng, đó là một thứ thần nguy hiểm và đáng sợ. Đó là thần tham lam dối trá, ghen ghét, thù hận, đam mê xác thịt, hưởng lạc và nhiều những thói hư tật xấu khác. Đó là những thứ thần ngấm ngầm ăn sâu vào tận xương tủy con người. Hơn ai hết Chúa Giêsu hiểu được rằng con người dễ chạy theo những quyến rũ của thế gian mà lãng quên hoặc tôn thờ Chúa một cách nửa vời, đó là một mối nguy hiểm.

Điều thứ hai không kém phần quan trọng đó là “yêu người thân cận như chính mình”. Chúng ta phải kính mến Thiên Chúa vì Người là Đấng sáng tạo và làm chủ muôn vật muôn loài, trong đó con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, được Thiên Chúa cứu chuộc bằng giá máu và mạng sống của Chúa Giêsu Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Kính mến Thiên Chúa cụ thể là yêu thương tôn trọng con người. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ canh cánh có một điều là yêu thương và cứu chuộc loài người.

Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã hạ mình xuống mang thân phận con người để cứu chúng ta khỏi ách tội lỗi và sự chết. Yêu người một cách “sơ sơ” thì dễ nhưng “yêu như chính mình” thì thật khó. Yêu thương những người nổi tiếng, lịch sự, xinh đẹp, giàu có thì dễ, nhưng thật khó biết bao khi yêu thương những người nghèo khổ, dốt nát, người hay gây phiền toái cho ta. Yêu thương những người mang lợi lộc đến cho ta thì dễ nhưng khó mà yêu thương kẻ thù của ta, những người hàng xóm khó tính, keo kiệt, những người nghèo lang thang đầu đường xó chợ…Đòi hỏi của Chúa

Chính Chúa là mẫu gương cho chúng ta yêu người, và là dấu hiệu của người môn đệ của Chúa: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Mc 13, 34-35).

Ngài đã dám thí mạng sống mình cho người mình yêu (Ga 15, 13). Ngài đã phục vụ ngay cả người môn đệ của mình bằng việc cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13, 5.13), để làm gương cho chúng ta hôm nay. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta hãy sống như Thầy Giêsu.

Khi thật sự yêu thương là sẵn sàng tha thứ cho tha nhân, sẵn sàng làm hòa với nhau: "Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).

Tình yêu thương nhau phải chân thành, không giả tạo, như Thánh Gioan đã khẳng định: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy... Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4, 20-21). 

Trong thực tế, ta thấy rất rõ rằng tình yêu thể hiện qua việc chia sẻ cho nhưng người nghèo đói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". (Mt 25, 35-36). Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa sẽ ban thưởng cho chúng ta còn hơn gấp bội: "Phúc cho ai biết thương xót thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót" (Mt 5, 7).

Và rồi ta thấy rằng Mùa Chay chính là là thời gian thuận tiện để nhắc nhở chúng ta thực hành giới luật “Yêu Chúa và Yêu người”.

 

Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Chay

Hs 6:1-6; Tv 51:3-4,18-19,20-21; Lc 18:9-14

KHIÊM TỐN CẦU NGUYỆN

Thời gian trôi qua thật nhanh ! Mới hôm nao mà hôm nay chúng ta đã bước vào cuối tuần thứ III Mùa chay. Ngày cuối của tuần III Mùa Chay này ta bắt gặp lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, canh tân đổi mới đời sống của bản thân và gia đình vẫn khẩn thiết được gửi đến từng người trong chúng ta từ linh mục đến tu sĩ và giáo dân.

Việc sám hối trở về là việc của mọi người, tuy nhiên có nhiều người trong chúng ta vẫn chưa có một quyết định thay đổi cụ thể nào, lý do vì họ không nhận ra những sai lầm thiếu sót của mình, là vì họ làm sai mà cứ cho là đúng, họ để cho sự kiêu căng tự mãn che khuất nên không thể nhìn thấy rõ thực chất tình trạng con người của mình.

Theo quan niệm người ta vào thời bấy giờ, người thu thuế thì bị khinh khi, và họ không thể nào tự mình thưa chuyện với Thiên Chúa bởi vì họ là những kẻ ô uế.  Trong câu chuyện dụ ngôn, Người Biệt Phái cảm tạ Chúa vì ông ta tốt lành hơn những kẻ khác.  

Lời cầu nguyện của ông ta không có gì khác hơn là một lời tự khen ngợi mình, lời đề cao các phẩm hạnh của mình và khinh miệt đối với kẻ khác và đối với người thu thuế.  Người thu thuế thậm chí không dám ngước mắt lên, nhưng ông ta đấm ngực và nguyện rằng:  “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội!”  Ông ta tự đặt vào vị trí của mình, là vị trí của ông ta đứng trước mặt Thiên Chúa.

Tự cho mình là người công chính. Chúa Giêsu đã nêu lên bài học của dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế là: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Sự kiêu căng tự mãn nó cũng che khuất con mắt của người biệt phái hôm nay, anh ta lên đền thờ với tư thế hiên ngang tự đắc, anh nghĩ rằng các thành tích anh đã làm khiến cho Thiên Chúa phải “nể” anh và mắc nợ anh. Thực sự người biệt phái này không hề cầu nguyện, mà anh đang làm một bản báo cáo thành tích của chính mình và kể lể công trạng trước mắt Chúa: Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười thu nhập hằng ngày.

Việc làm ấy quá tốt, vượt trên cả luật lệ quy định về ăn chay, thế nhưng, anh ăn chay không phải để đền tội hy sinh, cũng không phải để chuẩn bị đón Đấng Mesia như ý nghĩa ban đầu của nó, mà anh ăn chay và giữ luật chỉ để cho thấy anh hơn người khác. Chính vì thế, ngay từ lời mở đầu anh đã có ý so sánh mình với người khác: Lạy Chúa tôi tạ ơn Chúa vì tôi không như bao kẻ khác, tham lam bất chính, ngoại tình hay như tên thu thuế kia.

Tạ ơn Chúa về những việc tốt mà chúng ta làm thì không có gì sai trái. Chỉ sai trái khi chúng ta khoe mình là công chính nhờ những hành động tốt và những nhân đức của bản thân. Tệ hơn nữa là chúng ta lại giống như người Pharisêu đã làm trong lúc cầu nguyện, tự cho mình hơn những người khác và xem thường họ. Tất cả những công việc tốt lành  của chúng ta cũng đều do Chúa hơn là do chúng ta. Chính Thiên Chúa hoạt động nơi ước muốn cũng như nơi thành quả của chúng ta. Thế nên, chúng ta không thể khoe khoang về bất cứ điều gì. Nơi con người chỉ có tội lỗi mà thôi.

Không chỉ so sánh công trạng của mình với ngưới khác, nhưng anh còn tỏ vẻ khinh miệt người thu thuế kia, và cứ như anh đã nói, thì có thể thấy anh coi nhưng người khác là những người tội lỗi và phạm những cái tội mà anh không hề phạm, chứng tỏ anh tốt hơn họ rất nhiều, anh thầm muốn nói điều đó qua lời cầu của mình.

Trong khi đó, người thu thuế nhận ra tình trạng khốn khổ tội nghiệp tội lỗi bất xứng của mình, anh không dám ngửa mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực cầu nguyện với lòng sám hối chân thành: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Anh không dám kể lể gì, vì anh thấy mình chẳng có công trạng gì, anh đã nhìn thấy sự thiếu sót khiếm khuyết và tội lỗi của mình, anh biết rằng vì nghề nghiệp, vì cuộc sống mà anh đã phải làm một cái nghề bị xã hội đương thời kết án là ô uế tội lỗi, vì anh đã thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều người và vì sự cuốn hút của đồng tiền khiến anh cũng không thể cầm lòng được. Chính vì ý thức và nhìn thấy thực trạng con người của mình trước mặt Chúa và trước mặt mọi người, nên anh chỉ còn biết kêu xin lòng thương xót và sư tha thứ của Thiên Chúa.

Về phía Thiên Chúa, Ngài chỉ chờ đợi có như thế Ngài chỉ mong muốn không phải là những thành tích dài dòng, không phải là những báo cáo tổng kết, mà là một “tấm lòng tan nát khiêm cung”, tan nát vì hối hận, vì thấy rằng mình đã làm tổn thương đến tình yêu của Thiên Chúa là Cha, khiêm cung vì nhìn thấy mình hoàn toàn bất xứng đáng bị trừng phạt hơn là được khoan dung, khiêm cung để nhìn thấy được tình yêu và lòng quảng đại tha thứ của Chúa. Thiên Chúa muốn và chờ đợi thái độ như thế, và vì thế, câu chuyện cho thấy Chúa Giêsu tuyên bố: Người thu thuế khi trở về thì được tha thứ và nên công chính, còn người biệt phái thì không.

Đối với Chúa, kẻ ra về được nên công chính, nghĩa là trong một mối quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, không phải là người Biệt Phái, mà lại là người thu thuế.  Chúa Giêsu làm đảo lộn mọi thứ.  Điều chắc chắn rằng các giới chức tôn giáo của thời ấy đã không hài lòng với sự ứng dụng mà Chúa đã cấu tạo trong dụ ngôn.

Có thể chúng ta chưa sám hối, chưa thay đổi là vì chúng ta cũng giống người biệt phái kia chăng? Chúng ta không nhìn thấy tội lỗi của mình mà chỉ nhìn thấy những thành tích, có khi chúng ta cũng kể lể với Chúa rằng: tôi vẫn đi nhà thờ vẫn đi lễ, vẫn đọc kinh, vẫn đóng góp dâng cúng chỗ này chỗ khác, nên không thấy được khuyết điểm của mình, chúng ta ngủ mê trong một vài thói quen đạo đức vô hồn, hình thức bên ngoài mà không có chiều sâu và không có tâm tình yêu mến, hoặc chúng ta đến với Chúa không phải với thái độ của người con, của người cần sự tha thứ, cẩn được yêu thương đổi mới, nên chúng ta không được tha thứ và chưa được đổi mới.

Trong cầu nguyện, Chúa Giêsu đã mật thiết gắn bó với sự kiện cụ thể của đời sống và với các quyết định mà Người phải làm.  Để trung thành với chương trình của Chúa Cha, Người đã tìm cách gặp gỡ riêng với Ngài để lắng nghe lời Ngài.  Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Thánh Vịnh.  

Chúa Giêsu đã làm như bất kỳ người Do Thái sùng đạo khác và Người thuộc lòng chúng.  Thậm chí Chúa Giêsu đã thành công trong việc sáng tác bài Thánh Vịnh của riêng mình.  Đó là Kinh Lạy Cha.  Cả cuộc đời của Chúa là lời cầu nguyện thường trực:  “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm!” (Ga 5, 19, 30).  Đối với Người có thể ứng dụng với những gì Thánh Vịnh đã nói:  “Phần con, con chỉ biết cầu nguyện!” (Tv 109, 4).

Chúa Giêsu cầu nguyện rất nhiều và, được nhấn mạnh để cho dân chúng và các môn đệ của Người sẽ làm như vậy, bởi vì từ sự hiệp nhất với Thiên Chúa phát sinh ra chân lý và người ta có thể khám phá và tìm được chính mình, trong mọi thực tế và lòng khiêm tốn.  

 

March 12, 2021