dongcong.net
 
 

Suy Niệm của Lm Đan Vinh

 HIỆP SỐNG TIN MỪNG
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH B
Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8
CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT 

  1. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn họ đi về xứ Ga-li-lê để gặp Người.        
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu đêm của một ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cũng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt và gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1 ; Mt 28,1 ; Mc 16,1 ; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giê-su và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên. Điều này cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian an táng Đức Giê-su quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giê-su. Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một phàm nhân nữa.
- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất có đông dân ngoại.
- HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: ông La-da-rô, con trai bà góa thành Na-in hay con gái ông Gia-ia có giống với thân xác loài người sau này sẽ sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh khi cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng tự chứng minh có xương thịt mà các ông có thể xem và sờ thấy được. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiên của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà lại tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi: Dù không có mặt nhưng Người vẫn nghe được yêu cầu của Tô-ma (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết và đã được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, họ được bước vào một cuộc sống mới vô cùng cao quí, vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

  1. SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN: CON CÁNH QUÝT.
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
3. SUY NIỆM:
- AI TRONG CHÚNG TA cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại chưa đủ 3 ngày sau đó. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi sống lại và đã gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
- “TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”: Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giê-su, Vua Mê-si-a ngự đến phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù... thì sẽ được Vua Thẩm Phán Giê-su xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín, ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ, thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân... thì sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời, nơi dành sẵn cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại mà chúng ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời đời đời?
4. THẢO LUẬN: 1) Bí Tích Rửa Tội do Đức Giê-su lập gồm hai yếu tố: Một là tẩy rửa bằng sự dìm mình chúng ta trong dòng nước sông, và hai là tái sinh chúng ta nên con cái Thiên Chúa nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta tuy đã chịu phép Rửa tội, nhưng đã thực sự được tái sinh làm con yêu dấu của Thiên Chúa chưa? 2) Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong!
- NHƯNG LẠY CHÚA, con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Tuy nhiên, trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông. Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để cứu độ loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa ở đời sau.         
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT PHỤC SINH B
Cv 10,34a.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9
CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA KI-TÔ
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Sau khi chịu chết vào chiều Thứ Sáu, Đức Giê-su đã được hai môn đệ an táng trong ngôi mộ đá. Nhưng đến ngày Thứ Nhất trong tuần, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ra thăm mộ đã tỏ ra hốt hoảng khi thấy tảng đá che đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp hai ông Phê-rô và Gio-an cấp báo sự thể. Hai môn đệ bán tín bán nghi cùng chạy ra mộ để xem rõ sự thể. Hai ông thấy ngôi mộ bị mở toang, nhìn vào trong thì thấy khăn liệm vẫn còn, nhưng xác Thầy đã biến mất. Ông Phê-rô im lặng suy nghĩ, đang khi Gio-an “đã thấy và đã tin”: Qua sự kiện xác Thầy biến mất nhưng khăn vải liệm vẫn còn để lại, nên đã suy luận và tin Thầy đã phục sinh.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ: Theo Tin Mừng Gio-an, do lòng mến thôi thúc mà chỉ mình bà Ma-ri-a ra thăm mộ để xức dầu thêm cho thân xác mới an táng của Thầy.
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Khi thấy "tảng đá đã lăn khỏi mộ", bà liền vội vã chạy về nhà Tiệc Ly thông báo sự kiện mồ trống cho hai ông Phê-rô và Gio-an là những người lãnh đạo Nhóm Mười Hai. + Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: Câu này cho thấy bà không hề nghĩ là Thầy Giê-su có thể đã phục sinh.
-C 3: + đi ra mộchạy mau hơn: Sở dĩ Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đến mộ trước Phê-rô là do ông còn trẻ và có sức khỏe dồi dào hơn ông Phê-rô.
-C 4: + Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào: Gio-an thể hiện sự tôn trọng Phê-rô là đán anh, vừa cao niên hơn lại vừa được Đức Giê-su đặt làm người đứng đầu Nhóm Mười Hai.
-C 6: + Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó: Câu này cho thấy tính quyết đoán của Phê-rô. Tuy có chậm hơn Gio-an, nhưng ông Phê-rô đã được Gio-an tôn trọng nhường bước vào bên trong mộ trước. Ông Phê-rô "nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Điều này cho thấy giả thuyết bà Ma-ri-a thông báo xác Thầy đã bị đánh cắp là không có cơ sở, vì "kẻ trộm sẽ chẳng dại mất quá nhiều thời giờ để ngồi tháo các băng vải, cuộn lại đặt riêng ra một nơi" (Theo suy niệm của thánh Gioan Kim Khẩu).
-C 8: + Ông đã thấy và đã tin: Ông Gio-an tuy vào mồ sau Phê-rô, nhưng có lẽ Gio-an đã đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh trước Phê-rô do lòng mến thôi thúc. Chính nhờ lòng mến này mà sau đó, Gio-an đã luôn nhận ra Thầy trước các anh em như ông đã nhận ra Thầy là người mới vừa đứng trên bờ hồ hướng dẫn các ông thả lưới bắt mẻ cá lạ lùng (x. Ga 21,7).  
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ từ sáng sớm ngày Thứ Nhất và bà ra thăm mộ để làm gì? 2) Hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an đóng vai trò thế nào trong Nhóm Mười Hai Môn Đệ của Đức Giê-su ? 3) Khi thấy cửa mộ mở và xác Thầy biến mất, bà Ma-ri-a có tin Thầy đã sống lại không? Câu nói nào của bà cho thấy thái độ không tin Thầy đã sống lại?  4) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 5) Cả hai ông đều thấy mồ trống, đều thấy những tấm băng vải cột xác Thầy khi an táng đã được xếp để lại gọn gàng và ai trong hai ông đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ xấu đến lấy trộm xác?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8b).
2.CÂU CHUYỆN: Một Sư Bà đã được sống lại về phần linh hồn trong giờ chết.
Cha Giuse Bùi Văn Nho, cha sở họ đạo GIƠN ĐẮC (Jeanne d’ Arc) nhà thờ ngã sáu Chợ lớn đã thuật lại câu chuyện cảm động mà chính cha là người trong cuộc như sau:
Vào một đêm khuya thanh vắng bỗng chuông điện thoại trong nhà xứ reo vang. Có tiếng một bà phước mời cha đến ngay bệnh viện Hồng Bàng để ban phép giải tội cho một sư bà đang nằm điều trị tại đây. Sư bà ngỏ ý muốn gặp cha để xin xưng tội. Sau khi tìm hiểu kỹ về trường hợp này, cha biết được sư bà này vốn là người Công giáo, nay gần chết sư bà đã nhờ bà phước mời cha đến giúp bà được sống lại trong ơn nghĩa Chúa!
Khi đến nơi, thấy sư bà đang nằm thở thoi thóp không nói nhiều được. Cha chỉ hỏi vắn tắt mấy câu để biết rõ xem sư bà có phải là người Công giáo không?
- Tên thánh bổn mạng của bà là gì?
- Maria Anna.
Câu trả lời của sư bà khiến cho cha yên tâm để giúp bà sám hối tội lỗi, trước khi ban phép giải tội, phép xức dầu bệnh nhân và cho bà rước lễ như của ăn đàng. Trước khi về nhà, cha còn căn dặn bà phước: nếu sư bà tỉnh lại, phải báo lại cho cha biết để đến giúp gia tăng đức tin. Bốn ngày sau, bà phước báo tin sư bà đã hồi tỉnh và muốn được gặp cha. Cha đã đến gặp và nghe bà tâm sự về cuộc đời và lý do đi tu chùa của bà như sau:
“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách, thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là hội viên đoàn con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi có một thanh niên ở Sài-gòn làm quen và sau đó xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến gần ngày hẹn, vị hôn phu lại xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh đã về Sài-gòn và dặn con cứ an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà vẫn bặt tin tức của anh. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sài-gòn đi tìm, dù mọi người thân đều ngăn cản. Một hôm con đã lén ăn cắp ít tiền của cha mẹ, rồi trốn lên Sài-gòn trong tình trạng bơ vơ không biết đi về đâu. Sau đó con đã tìm đến nhà một chị bạn đồng hương và được cho ở trọ. Ngày ngày con đi dò la tin tức mà vẫn không gặp người xưa. Rồi một hôm khi đi dự lễ tại nhà thờ Huyện-sĩ, con tình cờ trông thấy vị hôn phu của con mà anh ta lại không nhìn thấy con. Lễ xong con đi theo anh ta về tới tận nhà mới biết anh đang sống chung với một người vợ và có một đứa con. Con đã té xỉu khi biết rõ sự việc! Rồi con buồn bã đi lang thang không biết phải đi đâu và làm gì ?… Về nhà thì xấu hổ với mọi người, lại sợ bị cha sở và cha mẹ quở mắng.
Sống lây lất ở Sài-gòn được bốn tháng trong tình trạng không còn tiền, bị thất nghiệp và thất tình, một hôm con đã được người bạn giới thiệu xin việc làm ở vùng Chợ Lớn. Tại đây, bị cơn mưa lớn, con vào trú mưa trong một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành xin ngủ đêm tại chùa. Sư trụ trì chùa thương hại cho con ăn cơm thêm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị nếu con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra ngoài Huế. Không hiểu tại sao con lại đồng ý và nhà sư đã viết giấy giới thiệu và còn cho tiền lộ phí nữa.
Ra Huế, tu được 20 năm, con đã được nhận giấy chứng chỉ của Vua Bảo Đại, công nhận là bậc chân tu. Con được lệnh vô Sài-gòn để thành lập một ngôi chùa sư nữ, vì trong miền Nam bấy giờ chưa có chùa cho nữ giới. Nhưng khi vào đến đây được ít lâu, con đã mắc phải bệnh lao phải nằm nhà thương, đến nay là sáu tháng. Mỗi lần con trông thấy cha vào thăm bệnh đi qua giường con, con muốn nói với cha mà không sao mở miệng, nên chỉ biết cúi đầu chào cha. Hôm bệnh trở nặng bị thổ huyết, con mới đánh bạo nói thật với bà phước, để nhờ bà mời cha đến…”
Bà sư sống thêm được hai tuần lễ nữa rồi qua đời sau khi đã được hoàn toàn quay về làm con cái Thiên Chúa. Khi bà vừa tắt thở thì một điều rắc rối đã xảy ra: một vị sư thày đã đến trách cha sở cướp người nhà chùa của họ. Sư thầy nói: “Bao nhiêu người khác sao cha không dụ theo đạo mà lại dụ dỗ người nhà chùa của chúng tôi?”. Cha cố gắng giải thích thế nào thì sư thày cũng không chấp nhận. Ông không tin sư bà trước kia là người Công giáo. Sau cùng cha đành đồng ý để bên nhà chùa cử hành lễ nghi an táng theo Phật Giáo. Nhưng rồi hai tiếng đồng hồ sau, nhà sư đột nhiên thay đổi ý kiến. Ông đến gặp cha và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường việc an táng bà này cho bên Công giáo”. Rồi nhà sư giải thích lý do: “Vì khi thay xiêm áo cho bà, chúng tôi đã tìm thấy trong bóp của bà một bản di chúc nói rõ tên thật, tên cha mẹ, quê quán và yêu cầu nhà chùa nhắn tin cho cha mẹ của bà biết là bà đã được chịu các phép bí tích công giáo trước khi chết. Bà còn nói rõ ý muốn: “Tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ Công giáo”. Vì thế chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo cử hành nghi lễ an táng cho bà và chỉ xin được tiễn đưa bà tới nơi mộ phần thôi. Đám tang của sư bà hôm ấy có rất đông sư sãi đi tiễn đưa và chỉ có một linh mục là cha sở Nhà thờ Ngã sáu. Sau lễ an táng, bà phước đã trao cho cha cái bóp của sư bà, trong đó có một mẫu ảnh áo Đức Bà Núi Carmêlô. Có lẽ nhờ có lòng mến Đức Mẹ nên cuối cùng sư bà đã được Mẹ cầu bầu để sống lại trong ơn nghĩa Chúa vào giờ sau hết.
(Viết theo “Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi Của Họ Chợ Lớn”-  VN, tr. 94-100)
3.THẢO LUẬN: 1) Bạn có cảm nghĩ gì sau khi biết được câu chuyện của sư bà nói trên? 2) Theo bạn khi mừng lễ Phục Sinh hằng năm, để việc mừng lễ có giá trị thực sự, mỗi người tín hữu phải làm gì cho bản thân và giúp đỡ tha nhân chung quanh?
4.SUY NIỆM:
1) Sự sống lại của Chúa đã làm cho các Tông đồ được biến đổi:
Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã làm biến đổi cuộc đời của các tông đồ: Nếu trước cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã tỏ ra hèn nhát kém tin khi đã chối Thầy tới ba lần, thì sau khi gặp Chúa Phục Sinh và đón nhận được Thần Khí của Người, ông đã nên can đảm mạnh mẽ, rao giảng về Chúa Ki-tô trước đám đông dân chúng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước công đường... Trước đây chưa hiểu Lời Chúa, thì nay ông đã thông suốt những Lời Chúa trong Sách Thánh nhờ gặp được Chúa Phục Sinh như ông đã khẳng định: "Còn chúng tôi đây xin làm chứng... Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng".
2) Điều kiện để nên con người mới: phải chết đi cho con người cũ:
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi đã chết, nên chúng ta cũng chỉ có được sự sống mới sau khi đã chết đi cho con người cũ. Đó là chết đi cho những thói hư và tội lỗi của con người cũ nơi ta như lời thánh Phao-lô dạy: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
Sự sống mới đòi hỏi một sự tự hủy và lột xác: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Cũng vậy, khi phá hủy «cái tôi ích kỷ», thì «cái tôi» ấy sẽ không bị mất đi, nhưng sẽ được chuyển hóa thành một con người mới phong phú, mạnh mẽ hơn gấp bội. Thực tế cho thấy: Ai càng ích kỷ thì sức sống của họ càng nhỏ bé và càng mất đi giá trị và hạnh phúc. Ngược lại, «Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân sẽ không tìm thấy hạnh phúc và cũng chẳng giúp cho ai có được hạnh phúc. Trái lại, những vị thánh, những người luôn quên mình, vị tha lại là những người luôn sống trong hạnh phúc, mặc dù xem ra bề ngoài các ngài có bị thiệt thòi và chịu khổ cực hơn ai hết.
3) Xin được sống lại thật về phần linh hồn:
Chúa Ki-tô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Ki-tô đã sống lại, cái chết khộng còn là biểu tượng của thất bại và là ngõ cụt, nhưng đã trở thành cánh cửa mở ra hướng về một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đã về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mời gọi chúng ta đi theo Người “qua đau khổ vào trong vinh quang”. Đó là đức tin và là niềm hy vọng của các tín hữu chúng ta.
Mỗi môn đệ Chúa xưa mỗi người đều có một cách thức đón nhận đức tin và biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm phục sinh cách khác nhau; nhưng tất cả đều có chung một lòng yêu mến Chúa Giê-su và sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống quên mình vị tha và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
4) Sống lại thành con người mới luôn quên mình, vị tha, khiêm nhường phục vụ:
Con người mới được thánh Phaolô xác định như sau: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24). Như vậy, trở nên con người mới chính là nên con người nguyên thủy như khi mới được Thiên Chúa tạo dựng, và trước khi phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản tính của “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vậy, để có một đời sống mới, con người mới, ta cần quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người tự mãn ích kỷ, khi chỉ biết lo cho bản thân mình… để mặc lấy con người mới là con người vị tha, luôn sống chan hòa yêu thương phục vụ tha nhân. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta cần phải cầu xin ơn Thánh Thần như thánh Phao-lô đã dạy: «Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta có ơn Thánh Thần, chúng ta sẽ được Ngài biến đổi toàn diện: Từ cách suy nghĩ, nói năng đến thái độ và hành động, để trở thành một con người mới thực thụ, giống như các Tông đồ khi xưa sau khi đớn nhận Thánh Thần trong lễ Ngũ tuần. Nhờ đó, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su mới thật sự mang lại ích lợi cho cuộc sống đời đời của chúng ta.
 5.LỜI CẦU:
Lạy Chúa Phục Sinh. Xin ban cho con luôn có được sự sống của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ mãi xanh tươi và được đơm bông kết trái. Xin ban cho con luôn có sự bình an của Chúa, nhờ đó con sẽ vững tâm theo Chúa giữa bao sóng gió đường đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, nhờ đó khuôn mặt của con sẽ luôn tươi vui rạng rỡ, sẵn sàng tỏ ra thân thiện và đi bước trước đến kết bạn với tha nhân. Xin ban cho con niềm tin và niềm hy vọng của Chúa, nhờ đó con sẽ hăng hái lên đường chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, không quản ngại những khó khăn gian khổ. Và nhất là: Lạy Chúa, xin ban cho con đầy tràn Thần Khí của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ luôn được đổi mới nên tốt lành thánh thiện và giới thiệu Chúa đến cho mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM

 

LỄ VỌNG PHỤC SINH
TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA
(St 1,1-22; Rm 6,8-11; Mc 16,1-8)

LM Đan Vinh.- Chính Xứ Sao Mai, Tân Bình.
- www.hiephoithanhmau.com

Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.

1)Mầu nhiệm gây hai niềm tin đối nghịch: Khi an táng Đức Giêsu, các thượng tế đã yêu cầu quan Philatô cho phép sai một đội dân quân Đền thờ đến canh mộ Người trong ba ngày, để tránh các môn đệ Người đến lấy trộm xác (x Mt 27,62-66). Rồi khi thấy Chúa sống lại, bọn lính canh đã hoảng sợ chạy vào thành báo tin và sau đó nhận tiền của các thượng tế để phao tin rằng: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi”.. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do thái cho đến ngày nay (Mt 28,12-15).

2)Mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh là một chân lý đức tin: Sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna đã ra thăm mộ và vội chạy về báo tin cho các môn đệ biết: xác Thầy biến mất. Hai ông Phêrô và Gioan lập tức chạy ra mộ kiểm tra thực hư. Gioan tuy đến trước, nhưng lại nhường cho đàn anh theo sau vào mộ đầu tiên rồi mới vào sau. “Ông đã thấy và đã tin”: Ông thấy những khăn che đầu và khăn liệm xác được xếp đặt gọn gàng và tin Thầy đạ không bị kẻ trộm lấy đi, nhưng đã thực sự từ cõi chết trỗi dậy (x Ga 20,8-9).

3)Đức tin của môn đệ tiếp tục được củng cố: Sau đó, Chúa Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ: Hiện ra trong căn phòng đóng kín (x Ga 20,19); Hiện ra với Tôma và cho ông kiểm tra các vết thương (x Ga 20,27). Hiện ra với hai môn đệ về làng Emmaus (x Lc 24,31); Hiện ra trên bờ hồ Galilê (x Ga 21,7)…. Nhưng có lẽ lần hiện ra ảnh hưởng sâu đậm nhất là khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông Saolô tại cửa thành Đa-mát để biến ông đang từ một kẻ thù ghét bách hại trở nên Tông Đồ dân ngọai của Người (x Cv 9,4-5).

4)Phương cách làm chứng cho Chúa của các môn đệ: Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa phục sinh.

5)Sứ mệnh làm chứng cho Chúa của các tín hữu: Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng chỉ có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng cho Ðức Giêsu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người như các môn đệ xưa: Để được biến đổi như các ngài, chúng ta phải năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Nhờ năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, nhận được Thần Khí Phục Sinh để làm chứng cho Người.

6)Những phương cách làm chứng cho Chúa hôm nay: Ngày nay làm chứng cho Chúa không phải chỉ là việc thuật lại sự chết và sống lại của Chúa xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Ngừơi đã từ cõi chết sống lại và ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi như thế nào  Làm chứng cho Chúa là để Chúa Giêsu dùng chúng ta loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biều lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và thân thiện bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa,

7)Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin cho con năng gặp Chúa qua các buổi học sống Lời Chúa, qua việc tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, qua những ngừơi nghèo khổ bất hạnh… Nhờ Thần Khí Chúa tác động, con hy vọng sẽ ngày một biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ thực sự của Chúa và trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. AMEN.

 

CN I PHỤC SINH ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
THẤY VÀ TIN

Lm Đan Vinh – Chính xứ Sao Mai, Tân Bình
www.hiephoithanhmau.com

1.LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
           

2.CÂU CHUYỆN: SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH CHO CÁC DÂN TỘC :
Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Giáo hội như sau :
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn, Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Người rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Đức Giêsu đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Đức Giêsu đáp : “Ta lại đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người, nên tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp : “Giả như Phêrô, Gioan và các Tông đồ quên không thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông suôi thì sao ? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không ?” Chúa Giêsu trả lời : “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
           

3.SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gioan đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau :

a.LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MARIA MÁCĐALA ĐI TÌM CHÚA :
Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Maria Macđala đi thăm mộ Đức Giêsu ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy bên trong mồ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc an táng Thầy (x. Mt 27,61) chiều Thứ Sáu, thì giờ đây lại thôi thúc và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để tiếp tục ướp xác Đức Giêsu (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì có ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết rõ họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Maria chẳng hề dám có tư tưởng về chuyện Thầy đã phục sinh, mà chỉ mong tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phêrô và Gioan chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Maria lại quay ra mồ mà than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

b.LÒNG MẾN ĐÃ LÀM GIOAN NHẬN BIẾT CHÚA TRƯỚC ANH EM :
Gioan là một trong bốn môn đệ được Đức Giêsu kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất : dám theo sát Thầy từ lúc bị bắt đến khi bị xét xử trước hai tòa án đạo đời, dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Người trao phó Đức Maria làm mẹ để đón về nhà mà phụng dưỡng (x Ga 19,27). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gioan trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Tibêria (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gioan chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phêrô (x Ga 20,8).

c.LÒNG MẾN LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÊRÔ ĐƯỢC CHÚA TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN :
Phêrô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giêsu trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và có mặt khi Thầy hấp hối trong vườn Ghếtsêmani (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường đến trọ tại nhà Simon Phêrô tại Caphácnaum (x Mc 1,29). Có lần Phêrô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phêrô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ong cũng được Đức Giêsu trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn có nhiều khuyết điểm như : khuyên Thầy đừng chấp nhận theo con đường thập giá vào vinh quang và đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người trách về sự kém lòng tin (x Mt 14,31) hay không để Thầy rửa chân cho (x Ga 13,6-8). Phêrô cũng có lỗi khi quá cậy vào tài sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).

Nhưng Phêrô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như có nên nộp thuế đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Ông hay hỏi ý kiến Thầy như nên tha thứ đến mấy lần ? (x Mt 18,21). Ông đại diện anh em mà tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông bảo vệ Thầy bằng việc rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gioan theo dõi diễn tiến cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phêrô cùng với Gio-an cùng chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, thì Phêrô đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Rồi Phêrô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34 ; 1 Cr 15,5). Khi được Gioan mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phêrô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt đàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chết để làm chứng cho Thầy vào lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).

d.GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN :
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Maria Mácđala ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, là người đầu tiên đi ra thăm mồ và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gioan đã làm cho ông nhận ra Thầy và thấy ý nghĩa của những sự kiện dẫn vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Lòng mến Đức Giêsu cũng làm cho Phêrô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm đá tảng của đức tin, bảo vệ năng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi rơi vào thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trong cuộc đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Maria Mácđala xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giêsu, Sự sống đã chỗi dậy từ cõi chết, Ánh Sáng đã bừng lên từ bóng tối, Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng đã và sẽ được loan truyền khắp thế gian.

4.THẢO LUẬN :

1- Nơi Đức Giêsu sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” hay không ?

2- Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn được ơn chỗi dậy ?

5.NGUYỆN CẦU :

-LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân : Cha Đamiêng hy sinh phục vụ trại phong, cha Kônbê tình nguyện chết thay cho một tử tù, các bậc tiền nhân sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.

-LẠY CHÚA GIÊSU, sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, vừa có sức lôi cuốn chúng con vươn mình lên cao để nhận rõ giá trị giới hạn của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… để chúng con dám noi gương các thánh : sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy. Để chúng con quyết tâm dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, và sẵn sàng chấp nhận những hy sinh thiệt thòi gặp phải. Vì chúng con luôn xác tín rằng : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG B- LM ĐAN VINH
CN I PHỤC SINH ABC

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

I.HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH:
Gioan viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3.CHÚ THÍCH:

-C 1: +Ngày thứ nhất trong tuần : Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. Ngày thứ nhất là ngày sau ngày Sabát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày thứ nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay Ngày của Chúa.

+Sáng sớm… lúc trời còn tối : Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau : Ở đây Gioan viết : “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mátthêu viết : “Sau ngày Sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); so với Máccô : “Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Luca lại viết : “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1).

+Maria Mácđala : Mácđala là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghennêxarét. Đây là Maria quê tại Mácđala. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giêsu (x. Lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô : Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phêrô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Maria Mácđala cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất.

+Và người môn đệ Đức Giêsu thương mến : Cách nói “môn đệ được Đức Giêsu thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gioan. Một kiểu nói khiêm tốn : tác giả muốn ám chỉ mình nhưng lại không muốn nhắc đến tên riêng của mình.

+Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết :: Khi thấy mồ trống, Maria Mácđala không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên mà cho rằng ai đó đã đến lấy xác thầy đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Maria không có một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

-C 3-4: +Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ : Khi được các phụ nữ thông báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông.

+Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước : Lý do Gioan chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phêrô là vì còn trẻ nên có sức khỏe hơn và cũng vì yêu mến Thầy hơn.

-C 5-6: +Băng vải còn ở đó : Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giêsu. Khăn này theo truyền thuyết còn được giữ lại tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Turinô miền Bắc nước Ý.

+Nhưng không vào : Có thể do Gio-an chờ Phêrô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phêrô kịp chạy đến nơi.

+Simon Phêrô … vào thẳng trong mộ : Phêrô vốn tính nóng nảy nên lập tức vào mộ.

-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi : Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp Ladarô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giêsu không cần đến sự giúp đỡ của người đời mới có thể chỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho thấy Thầy đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ bao giờ mất công cởi các dây vải ra xếp gọn một nơi rồi mới đem xác đi !

+Ông đã thấy và đã tin : Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gioan suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại.

+Trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết : Trước khi thấy các dấu chứng thì Gioan và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21 ; 17,23 ; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh ứng nghiệm nơi Đức Giêsu và tin Người đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4.CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Maria Mácđala ra thăm mồ Chúa, so sánh giữa 4 tác giả Tin Mừng ta thấy có sự gì khác biệt không ? 3) Bạn biết gì về bà Maria Mácđala ? 4) Bà Maria Mácđala đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào đầu tiên ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phêrô và Gioan, bà Maria Mácđala có tin Chúa đã phục sinh hay không ? 6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phêrô và Gioan cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào ? 7) Tại sao Gioan chạy nhanh hơn Phêrô ? 8) Tại sao ông Gioan đến mộ trước Phêrô mà không vào ngay ? 9) Phêrô và Gioan cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh ? 10) Do đâu mà hai ông Gioan và Phêrô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không phải bị kẻ gian lấy cắp xác như báo cáo của bà Maria Mácđala trước đó ?

II.SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2.CÂU CHUYỆN: SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH CHO CÁC DÂN TỘC :
Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Giáo hội như sau :
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn, Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Người rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Đức Giêsu đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Đức Giêsu đáp : “Ta lại đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người, nên tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp : “Giả như Phêrô, Gioan và các Tông đồ quên không thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông suôi thì sao ? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không ?” Chúa Giêsu trả lời : “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.

3.SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gioan đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau :

a.LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MARIA MÁCĐALA ĐI TÌM CHÚA :
Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Maria Macđala đi thăm mộ Đức Giêsu ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy bên trong mồ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc an táng Thầy (x. Mt 27,61) chiều Thứ Sáu, thì giờ đây lại thôi thúc và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để tiếp tục ướp xác Đức Giêsu (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì có ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết rõ họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Maria chẳng hề dám có tư tưởng về chuyện Thầy đã phục sinh, mà chỉ mong tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phêrô và Gioan chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Maria lại quay ra mồ mà than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

b.LÒNG MẾN ĐÃ LÀM GIOAN NHẬN BIẾT CHÚA TRƯỚC ANH EM :
Gioan là một trong bốn môn đệ được Đức Giêsu kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất : dám theo sát Thầy từ lúc bị bắt đến khi bị xét xử trước hai tòa án đạo đời, dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Người trao phó Đức Maria làm mẹ để đón về nhà mà phụng dưỡng (x Ga 19,27). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gioan trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Tibêria (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gioan chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phêrô (x Ga 20,8).

c.LÒNG MẾN LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÊRÔ ĐƯỢC CHÚA TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN :
Phêrô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giêsu trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và có mặt khi Thầy hấp hối trong vườn Ghếtsêmani (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường đến trọ tại nhà Simon Phêrô tại Caphácnaum (x Mc 1,29). Có lần Phêrô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phêrô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ong cũng được Đức Giêsu trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn có nhiều khuyết điểm như : khuyên Thầy đừng chấp nhận theo con đường thập giá vào vinh quang và đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người trách về sự kém lòng tin (x Mt 14,31) hay không để Thầy rửa chân cho (x Ga 13,6-8). Phêrô cũng có lỗi khi quá cậy vào tài sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).
Nhưng Phêrô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như có nên nộp thuế đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Ông hay hỏi ý kiến Thầy như nên tha thứ đến mấy lần ? (x Mt 18,21). Ông đại diện anh em mà tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông bảo vệ Thầy bằng việc rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gioan theo dõi diễn tiến cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phêrô cùng với Gio-an cùng chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, thì Phêrô đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Rồi Phêrô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34 ; 1 Cr 15,5). Khi được Gioan mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phêrô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt đàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chết để làm chứng cho Thầy vào lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).

d.GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN :
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Maria Mácđala ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, là người đầu tiên đi ra thăm mồ và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gioan đã làm cho ông nhận ra Thầy và thấy ý nghĩa của những sự kiện dẫn vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Lòng mến Đức Giêsu cũng làm cho Phêrô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm đá tảng của đức tin, bảo vệ năng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi rơi vào thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trong cuộc đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Maria Mácđala xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giêsu, Sự sống đã chỗi dậy từ cõi chết, Ánh Sáng đã bừng lên từ bóng tối, Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng đã và sẽ được loan truyền khắp thế gian.

4.THẢO LUẬN:

1) Nơi Đức Giêsu sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” hay không ?

2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?

5.NGUYỆN CẦU:
-LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân : Cha Đamiêng hy sinh phục vụ trại phong, cha Kônbê tình nguyện chết thay cho một tử tù, các bậc tiền nhân sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.

-LẠY CHÚA GIÊSU, sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, vừa có sức lôi cuốn chúng con vươn mình lên cao để nhận rõ giá trị giới hạn của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… để chúng con dám noi gương các thánh : sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy. Để chúng con quyết tâm dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, và sẵn sàng chấp nhận những hy sinh thiệt thòi gặp phải. Vì chúng con luôn xác tín rằng : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com

 

Lm. Đan Vinh -
dongcong.net 30-3-2012

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)