Lễ CHÚA CHỊU PHÉP RỬA : Trầm Thiên Thu
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Dòng nước và dòng đời
(Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa – Chúa Nhật I TN, năm B)
Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!
Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,...
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38).
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!
Ông rao giảng về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
DÒNG TÌNH
(Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, năm B, Mc 1:6-11)
Êm đềm dòng nước Gio-đan
Phúc thay được Chúa đặt chân xuống rồi
Bình thường dòng nước mà thôi
Nhưng nước tuyệt vời rửa sạch oan khiên
Chính nhờ tác động Thánh Thần
Bao nhiêu tội lỗi sạch liền. Lạ thay!
Gio-đan nước vẫn miệt mài
Nước lên, nước xuống, hằng ngày luân phiên
Dòng Tình rửa sạch tội trần
Phù sa Tình Chúa ngày đêm đắp bồi
Dòng Tình Thương Xót tuyệt vời
Con xin cảm tạ suốt đời phàm nhân
Tội con đỏ thắm như son
Xin thương tẩy sạch trắng ngần, Chúa ơi!
TRẦM THIÊN THU
SỨ ĐIỆP NĂM MỚI
Năm mới đã khởi đầu. Những cái khởi sự mới cũng đang bắt đầu: Canh tân, chấn chỉnh, quyết tâm,... Đây là 10 sứ điệp của các danh nhân nhắn nhủ với chúng ta trong năm mới này... Hãy hành động ngay, bạn nhé!
ĐAM MÊ. Anthony Robbins nói: “Không có sự vĩ đại nếu không có niềm đam mê lớn, niềm đam mê đó tạo nên tên tuổi các nghệ sĩ, vận động viên, khoa học gia, người cha, người mẹ, doanh nhân,...”. Thật vậy, muốn đạt tới sự vĩ đại, bạn phải yêu thích chính những gì bạn làm. Ngay cả thập giá cũng vậy, không đam mê không vác nổi đâu!
MƠ ƯỚC. Johann Wolfgang von Goethe nói: “Bất cứ điều gì bạn có thể làm hoặc muốn làm, hãy bắt đầu ngay. Can đảm có tố chất thiên tài, sự kỳ diệu và sức mạnh”. Cứ ngại, cứ sợ, chẳng bao giờ làm được gì. Dám làm là tự tin, dám làm là yếu tố dẫn tới thành công, hãy dám làm những gì bạn mơ ước và phải khéo léo vận dụng.
HÀNH TRÌNH. Henry Boyle nói: “Hành trình quan trọng nhất trong đời bạn là gặp gỡ người khác tên đường đi”. Gặp gỡ thân mật với nụ cười chứ không chỉ nhìn nhau rồi thôi. Yêu thương khởi đầu từ nụ cười, ánh mắt, rồi mới có thể hành động cụ thể. Cảm thông và hiểu người khác có thể tạo nên sự khác biệt.
TÌM QUÊN. Og Mandino nói: “Khi bạn sai lầm hoặc thất vọng, đừng quay lại nhìn nó quá lâu. Lỗi lầm là cách cuộc đời dạy chúng ta. Việc phạm sai lầm khác với việc đạt mục đích. Không ai hoàn toàn chiến thắng, thất bại là mẹ thành công, thất bại chỉ là một phần trong quá trình phát triển. Hãy quên đi các lỗi lầm. Làm sao bạn biết mình hữu hạn? Hãy đứng dậy và bước tới!”. Nhân vô thập toàn, không ai không sai lầm, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng chí thiện. Biết vậy không phải để ỷ lại mà để cố gắng sống tốt. Sai thì sửa, té ngã thì đứng dậy, đừng nằm lì ra đó!
TÔI LÀ TÔI. Steve Jobs nói: “Thời giờ có hạn, đừng lãng phí thời gian mà sống bằng cuộc đời của người khác. Đừng sập bẫy giáo điều – tức là sống theo suy nghĩ của người khác mà không dám là chính mình. Đừng lệ thuộc ý kiến của người khác mà đánh mất chính mình. Quan trọng nhất là hãy can đảm theo con tim mình và trực giác của mình. Đó là cách bạn thực sự muốn cho mình, mọi thứ khác là thứ cấp”. Dĩ nhiên chúng ta không bảo thủ hoặc coi thường ý kiến của người khác, nhưng đừng lệ thuộc người khác. Ý kiến của người khác cũng đa dạng, cần biết minh định rạch ròi, nếu yếu bóng vía thì bạn sẽ “qụy ngã” vì các tin đồn của các “bà tám” hoặc “ông tám”.
TIN TƯỞNG. Marie Curie nói: “Cuộc sống không dễ dàng đối với bất cứ ai. Vậy là sao? Chúng ta phải kiên trì và tự tin. Chúng ta phải tin rằng mình có tài về lĩnh vực nào đó, và chúng ta sẽ đạt được như lòng mong ước”. Cuộc đời không như tấm thảm êm đềm, mà luôn gập gềnh, khúc khuỷu. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi vì số kiếp lận đận. Nhưg không phải vậy, vì cụ Phan Bội Châu đã nói: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Những người có tên tuổi đều là những người đã chịu nhiều thất bại, đau khổ, họ hơn chúng ta vì họ có ý chí sắt thép. Thánh Phaolô đã chịu nhiều thử thách nhưng vẫn không đầu hàng trước số phận, lại còn “tự hào về những yếu đuối của mình” (2 Cr 11:1-33). Lòng tự tin của Thánh Phaolô là niềm tín thác vào Đức Giêsu Kitô.
CƠ HỘI. Oprah Winfrey nói: “Cuối năm không là kết thúc cũng không là khởi đầu, mà là tiếp tục với sự khôn ngoan từ kinh nghiệm thấm nhuần trong chúng ta. Chào đón năm mới, đó là cơ hội mới để chúng ta phấn đấu”. Hãy rút lấy các bài học quý giá từ kinh nghiệm, và hãy áp dụng các bài học “xương máu” đó trong năm mới này. Rút ra rồi đừng để đó hoặc than thân trách phận, hãy quyết tâm cố gắng làm tốt hơn năm cũ.
KHỞI ĐẦU. Mẹ Teresa Calcutta nói: “Hôm qua đã qua. Ngày mai chưa tới. Chúng ta chỉ có hôm nay. Hãy bắt đầu từ hôm nay”. Thời gian là của Chúa. Chúng ta không làm chủ thời gian nhưng được quyền quản lý thời gian. Thời gian hiện tại rất quý. Hãy tập trung vào hôm nay, đừng ủ rũ vì quá khứ và mơ mộng với tương lai. Có hôm qua mới có hôm nay, có hôm nay mới có ngày mai. Trong ca khúc “Hát Về Cây Lúa Hôm Nay”, NS Hoàng Vân thật chí lý khi xác định: “Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay…”.
NÊN MỚI. Lão Tử nói: “Khi tôi cởi bỏ chính tôi, tôi trở nên cái tôi phải là”. Hãy tập trung vào con người mà bạn muốn trở nên, cứ trở nên dần dần, cứ từ từ, từng chút một. Đường gần hoặc xa không thành vấn đề, mà vấn đề là bạn có bước từng bước hay không. Chẳng ai có thể nhảy một cái là tới ngay nơi mình muốn đến. Chính những bước nhỏ lại có thể tạo nên hành trình dài. Kỳ lạ thật!
THỰC HIỆN. Mae Jemison nói: “Vị trí của bạn trong thế giới này là chính cuộc đời bạn. Hãy bước đi và làm những gì bạn có thể, hãy làm cho cuộc đời mình như bạn muốn”. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời mình, chính cha mẹ hoặc người thân cũng không ai có thể giúp gì hơn. Dám làm thì dám chịu. Vả lại, Thánh Phêrô đã nói rõ: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1 Pr 1:17).
Theo ngũ hành, năm 2015 là năm Ất Mùi, thuộc mệnh Kim hoặc Sa Trung Kim, tức là “vàng trong cát”. Đấy là nói theo quan niệm phàm nhân cho biết, cho vui thôi, đừng “nặng lòng” vì những điều vớ vẩn. Khởi đầu năm mới, hãy ghi nhớ: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Cung Chúc Tân Xuân – Happy New Year – Cung Chúc Tân Nhân – Happy New You.
TRẦM THIÊN THU
Tết Dương Lịch 2015.
KẺ ĂN MÀY
Tôi nói thật, khi tôi gặp một người vô gia cư hoặc một người ăn xin trên đường, tôi không có gì cho họ ngoài nụ cười. Có thể là nếu tôi cho họ chút đồ ăn thì cũng chẳng có gì thay đổi. Có thể đó là cách chồng tôi gợi hứng cho tôi, nhưng rồi tôi cứ ray rứt về những người ăn xin!
Tôi thực sự khác họ thế nào? Tôi không thể đứng ở góc đường để xin như họ, nhưng tôi không làm điều như Chúa sao? Thật vậy, mọi thứ quá bình thường, tôi cầu xin Chúa giúp. Tôi đi xưng tội, tôi tin mình chưa đến nỗi tệ.
Tôi có biết chuyện đời của họ? Tôi có biết tại sao họ như vậy? Không, tôi không hề biết gì. Chồng tôi cũng thấy những người như vậy trên đường đi hàng ngày. Anh dừng lại, hỏi thăm họ, và hỏi họ cần gì. Khi tôi gặp họ, tôi cũng dừng lại hỏi thăm họ. Tôi không thể làm ngơ họ khi Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương những người khốn cùng, Ngài dạy tôi bài học yêu thương và buộc tôi phải yêu thương để nên hoàn thiện.
Có lần tôi tỏ ra hãnh diện và xếp hàng chờ xưng tội. Có thể nhìn tôi không như những người ăn xin ngoài đường, nhưng chắc chắn rằng tội lỗi của tôi đã khiến tôi mắc cở vì tôi thực sự là một kẻ ăn mày. Tôi có muốn đứng đó chờ ăn xin ơn tha thứ của Thiên Chúa hay không? Tôi có xấu hổ không? Tôi có cần ăn mày lòng thương xót của Thiên Chúa hay không? Chắc chắn là cần, nhưng tôi lại không thấy xấu hổ.
Bạn có bao giờ nghĩ mình là một KẺ ĂN MÀY chưa?
Có lần tôi đứng xếp hàng và chờ tới lượt mình. Một người đàn ông cũng tới xưng tội. Anh ta chào tôi, biết tên tôi và tỏ vẻ thân thiện với tôi. Dù ở trên đường đi hoặc khi xếp hàng chờ xưng tội, trong mỗi chúng ta luôn có một kẻ ăn mày. Tất cả chúng ta luôn cần Thiên Chúa ban cho lòng thương xót, với ánh mắt hiền từ của Ngài, vậy tại sao chúng ta không tỏ tình yêu thương và thân thiện với người khác? Có một kẻ ăn mày trong tôi, có một kẻ ăn mày trong bạn. Chúng ta đều là những kẻ ăn mày, chẳng ai hơn ai. Tất cả chúng ta đều là những kẻ ăn mày đứng cầu xin lòng thương xót trước cửa Nhà Chúa, chúng ta cũng chẳng khác con chó chờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của Ông Chủ mà thôi!
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
Giao thừa Tết Dương Lịch – 2015
CHUYỆN ĐÊM GIAO THỪA
FAY WELDON
Cha mẹ cô theo lối cổ, đặt tên cô là Eve, với hy vọng cô sẽ có tố chất nữ tính thuần túy. Và đầu tiên chắc chắn là vậy. Cô sinh vào đêm giao thừa năm 1932, kháu khỉnh và dễ thương. Cha mẹ rất yêu thương cô. Nhưng giao thừa năm 1935, một bé trai sinh ra và được gọi là Adam, với hy vọng nó đủ tố chất nam tính. Và cậu đã như vậy.
Eve nhìn em bé trên tay mẹ và nói: “Trả nó về cửa hàng đi, con không thích nó”. Đó là sự thù ghét kéo dài suốt 74 năm, chính xác là giáng sinh năm 2006. Lúc đó cha mẹ cô không còn nữa nên không biết con gái mình thế nào.
Cô đặt cậu em vào chiếc nôi, cúi xuống nhìn mặt em. Cô mở vòi nước ấm khi em trai tắm. Thật ngẫu nhiên vì hai chị em sinh cùng ngày, cùng tháng. Các gia đình hạnh phúc đều mong sự ngẫu nhiên đầy ý nghĩa này. Nhưng cha mẹ của Eve có ý nghĩ khác. Họ bận rộn mở công ty ấn loát Hambeldon để làm giàu và lưu ý nhiều thứ khác.
Khi Eve 6 tuổi, nó nhốt em trai 3 tuổi vào chiếc rương trên gác, rồi nó ném chìa khóa đi, bỏ em trai suýt chết. Người ta hỏi nhà chiêm tinh. Chuyên gia nói rằng dù cả hai sinh với sao Thái dương ở cung Dương cưu, Eve có sao Thổ, sao Kim và sao Hỏa gắn kết rất mạnh ở cung Bảo bình tại căn nhà thứ hai và “khắc” với sao Thủy của Adam, định vị tương tự, các mối quan hệ không thể cải thiện.
Cha mẹ giải quyết vấn đề bằng cách gởi Eve đến ở nhà bà con tại Canada. Thế chiến II bùng nổ. Cuộc xâm lăng của Hitler xảy ra từng phút, trẻ em được đưa ra khỏi nước Anh để tìm lối thoát. Adam được giữ lại ở nhà. Nó sẽ đi học, nhưng rồi lại đi Rugby. Một sự giáo dục tốt cho con trai. Học xong, hôn nhân là chuyện dĩ nhiên của các cô gái.
Cha mẹ mất từ lâu. Bây giờ thì quá trễ để xin lỗi với bất kỳ ai. Người ta có thể tự nguyền rủa mình hoặc đổ lỗi cho số phận. Đôi khi người ta quên cả Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình và yêu thương mình vô cùng.
Trễ còn hơn không bao giờ. Ngày 31/12/2006, giao thừa, sao Thái dương ở cung Kim ngưu, sao Hỏa và sao Thủy cũng có liên kết, một ngày tốt cho cả hai. Sinh nhật thứ 75 của Eve và sinh nhật thứ 72 của Adam. Họ mắc nợ nhau nên kết hợp tổ chức sinh nhật và tiệc mừng năm mới. Họ làm vậy để tránh xa các cổ đông. Tiền lời giảm. Người ta xì xầm rằng ngày nay làm việc theo nhóm và hợp tác là yếu tố chính để thành công trên thương trường. Người ta còn bàn tán rằng các kẽ hở trong việc quản lý không tốt cho ai hết. Tin đồn! Để tôi giải thích.
Eve 15 tuổi khi cô trở về Anh. Chú và dì ở Canada đành để cháu gái về quê. Cô đã trưởng thành hơn khi vắng em trai. Cô học đại học và làm ở ngân hàng, xinh xắn, ngọt ngào, mặc áo cổ chữ V trông rất gợi cảm, nhưng chững chạc hẳn ra.
Cô bắt gặp cái nhìn của Adam khi vào căn nhà mới ở Esher. Trông cậu tự tin. Cậu không thông minh và cạnh tranh như chị, nhưng cậu dễ nhìn và hấp dẫn. Sao Kim ở cung Hổ cáp mà. Cậu luôn nghĩ về điều gì đó tốt đẹp hơn có thể đang ở phía chân trời. Cậu không lập gia đình. Adam nói với Eve: “Không thể liều được”. Cô cho cậu là “bóng”. Cô hỏi: “Giả sử các đứa trẻ đều như em thì sao?”
Cô lập gia đình, có hai con trai thông minh và đẹp trai, đều ở cung Bảo bình. Cô không nói xấu ai, ngoại trừ… Adam! Khi cô 45 tuổi, cô làm mọi người ngạc nhiên vì cô giải phẫu thẩm mỹ nâng mũi, sửa cằm và cắt mắt.
Adam nhìn có vẻ già trước tuổi, hói đầu, không hấp dẫn với phụ nữ. Còn Eve trông càng đẹp ra. Chồng mất. Cô có tình yêu mới dù ở tuổi thất thập. Adam tham gia công ty gia đình. Người cha bị bệnh Alzheimer rồi qua đời. Người mẹ bị nứt xương hông và cũng qua đời. Adam và Eve chỉ miễn cưỡng gặp nhau ở buổi họp. Cũng như mẹ, Eve là người canh tân. Cô muốn chính các con mình điều hành công ty.
Nếu Adam chết trước, cổ phần của cậu sẽ thuộc về Eve, va rồi sẽ thuộc về các con. Nếu cô chết trước thì tất cả là của Adam. Các thư mời công ty cổ phần được gởi đi vào tháng 11-2006. Adam muốn ghi là “Adam & Eve Hambeldon”, Eve muốn ghi là “Eve & Adam Hambeldon”. Adam hỏi: “Sao vậy? Em ghi theo mẫu tự mà”. Eve nói: “Nhưng chị sinh trước mà”. Mỗi người một ý, không ai chịu ai. Adam nói: “Được, cứ ghi Eve và Adam Hambeldon”.
Adam đón Eve đi dự tiệc. Cô có cảm giác được quan tâm. Nhưng vừa đi một chút, cô nói: “Dừng lại, chị quên đôi giày”. Cậu nói: “Chị đang đi giày mà”. Cậu nói: “Đôi giày dự tiệc kìa. Phải quay lại thôi. Chị không thể đi đôi giày này”. Adam nhìn chị. Eve nói: “Tin chị đi, chị của em mà”. Cậu nói: “Đó mới là vấn đề”.
Nhưng rồi chị em cũng thuận thảo từ sau bữa tiệc đêm giao thừa. Việc Chúa làm không ai hiểu hết. Họ cùng đi thăm mộ cha mẹ, và cùng xin lỗi nhau. Tất nhiên họ phải xin lỗi Chúa vì đã không biết yêu thương nhau như Chúa dạy. Họ bỏ qua hết những gì thuộc về năm cũ để bắt đầu một năm mới tốt đẹp, tràn đầy tình chị em, tình người và tình yêu Thiên Chúa… Đúng là một phép lạ!
TRẦM THIÊN THU
(Nguyên tác A Tale for New Year’s Eve của Fay Weldon)
TỰ DO, HƯỚNG THƯỢNG và ƯỚC MUỐN
Đây là hành trình ơn thiên triệu đặc thù của hai người Ý đã đính hôn, rồi họ trở thành linh mục và nữ tu. Câu chuyện do chính vị hôn phu – hiện nay là linh mục Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm – kể lại.
Phúc Âm theo Thánh sử Matthêu (19:16-22) thuật lời Đức Chúa Giêsu kêu gọi người thanh niên giàu có: “Hãy đến và theo Tôi”. Nhưng thanh niên buồn rầu bỏ đi vì chàng có quá nhiều của cải. Chúa Giêsu cũng từng gọi tôi như thế, nhưng tôi giả điếc làm ngơ. Thế gian có quá nhiều quyến rũ đối với tôi. Ý tưởng tận hiến cho Chúa đối với tôi thật xa vời. Tôi chỉ nghĩ đến việc giật cho được mảnh bằng tiến sĩ kinh tế và thương mại, rồi sau đó tôi hành nghề tự do.
Phải thành thật thú nhận rằng tôi là tín hữu Công Giáo hữu danh vô thực. Tôi không cầu nguyện, không lãnh các bí tích cũng không tuân giữ các giới răn của Chúa. Phải nhờ đến một cái tát nẩy lửa của mẹ tôi mới khiến tôi trở lại nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Nghĩa là mẹ tôi thành công trong việc thuyết phục tôi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Kể từ đó, không một Chúa Nhật nào trôi qua mà tôi không tham dự Thánh Lễ. Đây là bước đầu đưa tôi trở về với việc sống đạo đàng hoàng.
Lý do thứ hai lay động cuộc sống khi tôi tình cờ đọc một tác phẩm tôn giáo luận về Ngày Phán Xét Chung. Phản ứng sơ khởi là nỗi sợ hãi. Từ từ tôi tỉnh ngộ và chuyển từ sợ hãi sang ý thức: Phải luôn hành xử đúng đắn, không vì sợ luận phạt, nhưng để chứng tỏ lòng tôi yêu mến Thiên Chúa!
Từ đó tôi tiến bước trong hành trình Đức Tin và dấn thân trong vài công tác tông đồ ở giáo xứ. Nhưng tuyệt nhiên tôi không hề nghĩ đến chuyện đi tu hoặc làm linh mục. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ có ý tưởng tìm một thiếu nữ đoan trang và đi đến hôn nhân đúng theo phép đạo Công Giáo!
Thiên Chúa Quan Phòng cho tôi gặp một bạn gái đức hạnh. Chúng tôi đính hôn trong vòng hai năm. Chúng tôi tiếp tục sống Đức Tin dưới sự dẫn dắt của cha linh hướng, một vị linh mục thánh thiện. Hôn nhân, gia đình, con cái đông đúc là lý tưởng chính yếu của chúng tôi trong thời gian này. Chúng tôi chỉ chờ đợi ngày mãn đại học, tìm việc làm rồi cử hành hôn lễ.
Thế rồi Thiên Chúa bắt đầu tỏ lộ cho chúng tôi những dấu chỉ của một ơn gọi đặc thù, một lời mời gọi vào một sứ mệnh cao cả hơn. Nhưng chúng tôi chưa nhận ra, bởi con tim chúng tôi còn bị thắt chặt bởi những ràng buộc, những ước muốn hoàn toàn trần tục. Chỉ có một điều lạ là không hiểu sao – chỉ sau này khi đã vào dòng rồi chúng tôi mới hiểu – đó là việc chúng tôi từ từ tách rời nhau, tách rời mọi sự và mọi việc. Cùng với thời gian, không còn gì có thể lôi cuốn sự ham thích của chúng tôi nữa. Bằng cách này, Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng tôi làm một bước nhảy vọt tiến vào đời sống tu trì.
Quả thật, với sự trợ giúp của cha linh hướng, sau 2 năm đính hôn, chúng tôi không còn coi hôn nhân và gia đình là mục đích của cuộc đời và sứ mệnh của chúng tôi nữa. Chúng tôi bắt đầu nhận ra ơn gọi tu dòng nơi mỗi người. Chúng tôi nghiêm chỉnh nghĩ đến việc gỡ bỏ mối dây đính ước. Quyết định này không thể không làm cho cả hai con tim chúng tôi rướm máu. Tuy nhiên, chúng tôi ý thức thâm sâu rằng niềm hạnh phúc đích thực đến từ việc chúng tôi luôn sẵn sàng thi hành Thánh Ý Thiên Chúa.
Chúng tôi can đảm chia tay nhau. Mỗi người đi vào một dòng tu. Nàng trở thành nữ tu, còn tôi trở thành tu sĩ và sau đó được thụ phong linh mục. Thật là ân huệ trọng đại! Bây giờ, khi viết lại chứng từ này tôi muốn mời gọi các bạn trẻ đừng để mình bị quyến rũ và vây bọc bởi trăm ngàn thứ ràng buộc cùng các ước muốn trần tục. Nhưng hãy sống trong thanh thản và tự do, tự do trong sự thật và tinh thần. Như thế, con tim người trẻ sẽ dễ dàng hướng thượng và có những ước muốn trọng đại. Mong thay!
...“Hỡi những người con trung hiếu, hãy lắng nghe lời ta. Hãy nên như cây hồng lớn lên bên dòng nước, như cây hương tỏa mùi thơm ngào ngạt, như cây huệ trổ bông, hãy đồng thanh cất tiếng hát lên một bài ca. Hãy ngợi khen Thiên Chúa vì mọi việc Người làm. Hãy tán dương danh Chúa, ngợi khen chúc tụng Người, hãy đàn ca mà dâng lời cảm tạ. Mọi việc Thiên Chúa làm đều hoàn toàn tốt đẹp, mỗi mệnh lệnh Người ban sẽ được thi hành đúng thời, đúng lúc” (Hc 39:13-16).
TRẦM THIÊN THU
(Theo Immacolata Mia, n. 9+10, tháng 11-12/2004, tr. 14-15)
TRANG PHỤC VÀ TÔN GIÁO
Trang phục có thể không chỉ đơn giản là thời trang, mà còn là vấn đề liên quan niềm tin tôn giáo. Đây là 5 loại trang phục thể hiện tín ngưỡng trên thế giới.
1. KHĂN QUẤN
Khăn quấn (dastar) là khăn truyền thống được phụ nữ đạo Sikh sử dụng. Được quy định là khăn chính thức bởi Gobind Singh Ji, Đạo sư thứ 10 của đạo Sikh. Khăn quấn luôn phải sử dụng, đó là điều bắt buộc. Khi dùng khăn xếp, các tín đồ đạo Sikh phải để tóc tự nhiên, không được cắt tỉa, chỉnh sửa hoặc dùng thuốc gì khác. Chỉ được tháo khăn ra khi nào gội đầu mà thôi.
Một số giáo phái sử dụng khăn trùm đầu này – như Hồi giáo, Rastafarianism (một giáo phái gốc Jamaica, coi người da đen là dân tộc đã được Chúa chọn để cứu vớt), v.v... Theo truyền thống đạo Sikh, khăn này là một trong các dấu hiệu cho biết người đó là tín đồ đạo Sikh, biểu hiện yêu thương, can đảm và tâm linh, đồng thời là phương tiện bảo vệ tóc. Ngày Khăn xếp Quốc tế (International Turban Day) là ngày 13 tháng Tư hàng năm.
2. MŨ CHỎM
Mũ chỏm (trắng – kippah, yarmulke) là loại trang phục đặc biệt của Do Thái giáo, được đàn ông Do Thái giáo sử dụng. Mũ chỏm chỉ che một phần đầu, úp trên đỉnh đầu.
Mũ chỏm là dấu hiệu tôn kính Thiên Chúa, thường được dùng khi cầu nguyện và học tập. Người Do Thái chính thống luôn đội mũ chỏm, nhưng vì đó là thói quen của người Do Thái và không bắt buộc, người ta có thể ấn định tùy thời điểm mà phải đội mũ chỏm.
3. TRANG PHỤC HIJAB
Bộ trang phục này là biểu tượng của lòng khiêm tốn trong Hồi giáo, và thể hiện đức hạnh ở phụ nữ. Các phụ nữ sử dụng trang phục này vừa là khăn che mặt vừa là khăn trùm đầu, che cả cổ và ngực. Điều này có hướng dẫn trong Kinh Cô-ran, đó là cách hiểu về sự khiêm nhường, không chỉ thể hiện bề ngoài mà cả trong lời nói và hành động.
Có vài điều hiểu lầm về trang phục hijab, và điều này đã được tranh luận ở vài quốc gia như Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, và Tunisia. Người ta cho là không hợp pháp khi dùng trang phục này ở nơi công cộng và hạn chế ở các tòa nhà chính phủ.
4. ÁO CÀ SA
Áo cà sa (civara) là chiếc áo của sự giải thoát, thật tuyệt vời! Áo không có hình dạng, quấn chúng ta trong Phật pháp, chúng ta hoàn toàn tự do.
Các tăng ni Phật giáo đã sử dụng tu phục này 25 thế kỷ qua, tức là 2.500 năm. Đây là trang phục cổ nhất của tôn giáo? Có thể. Lịch sử cho biết rằng những chiếc áo đầu tiên được làm bằng những miếng vải thừa. Người ta xâu những miếng vải lại và nhuộm gia vị. Trang phục truyền thống thay đổi theo thời gian, vì vải ngày nay phải mua hoặc được tặng. Các cộng đoàn tu trên thế giới mặc các trang phục khác nhau.
5. ÁO THỤNG XẺ TÀ
Trang phục này dùng cho vua chúa, các giáo sĩ Công giáo và các Kitô giáo khác. Áo này xuất xứ từ Dalmatia, thuộc Croatia, thế nên người ta gọi áo này là “dalmatic”. Áo này được coi là lễ phục theo sắc lệnh của Thánh GH Sylvester năm 332.
Trang phục này là biểu tượng của sự phục vụ, tôn thờ và tận hiến cho Thiên Chúa. Giáo Hội cầu nguyện khi làm phép áo: “Lạy Chúa, xin giải thoát con nhờ chiếc áo cứu độ, chiếc áo của niềm vui, và chiếc áo công bình khoác trên con”.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ beliefnet.com)
XUÂN ẤT MÙI
Xuân Ất Mùi đã về trên Đất Việt
Cho lòng người thắm đẹp bao ước mơ
Xin trọn niềm tín thác Đức Kitô
Mong năm mới đầy hồng ân thương xót
Xuân Ất Mùi rung nhịp yêu tha thiết
Kính mến Chúa và yêu thương con người
Nhịp yêu rung khi môi nở nụ cười
Bất kỳ ai, dù người còn xa lạ
Xuân Ất Mùi – năm Tân Phúc Âm Hóa
Từng giáo xứ, từng cộng đoàn tu trì
Trọn chữ YÊU là giữ luật vân vi (*)
Chính là Luật Đức Giêsu đã dạy
TRẦM THIÊN THU
(*) Rm 13:10
DongCongNet