PÔNG - MANH, PHÁP
1.
Giữa Cơn Biến Động
Khi
ấy là thời điểm đen tối nhất của cuộc chiến năm 1870. Quân Phổ
đã chiếm được một phần lớn lãnh thổ nước Pháp, đẩy nước này vào
một tình cảnh vô cùng hỗn loạn. Sáng ngày 17 tháng 1 năm 1871,
quân Phổ tiến đến ngoại ô La-van (Laval) của thị trấn May-en (Mayenne).
Dân thành phải chuẩn bị nộp một cống khoản đến ba triệu đồng vàng
phật lăng mới hòng thoát được cuộc công phá của quân Phổ. Vị tư
lệnh quân đoàn 16 kể lại rằng: “Cảnh tượng binh lính chạy trốn
thật không sao tưởng tượng nổi. Họ đã điếc trước mệnh lệnh thượng
cấp. Tuy hai binh sĩ đã bị bắn chết trên đường đào tẩu, nhưng
xem ra việc ấy không có ảnh hưởng gì đến ai. Suốt 39 năm trong
quân ngũ, tôi chưa hề chứng kiến một tình cảnh quân hồi vô phèng
thảm hại đến như thế.”
2.
Dấu Chỉ Hy Vọng
Chiều
ngày 17 tháng 1, tại Pông-manh (Pontmain), một thị trấn nhỏ nằm
ở phía bắc May-en đang chìm dưới làn tuyết lạnh.Tuy lo lắng, nhưng
ai nấy vẫn sinh hoạt như thường lệ. Tại trung tâm thị trấn, hai
bé trai Êu-giê-nô (Eugene) và Giu-se Bác-bơ-đét (Joseph Barbedette)
đang giúp cha đập rạ cho ngựa ăn trong chuồng. Gần 6 giờ chiều,
Thiéu
teăp 25 khòng coă trong Pm5.0
tuyên
ngôn rõ ràng mẫu tính của Đức Ma-ri-a là công trình của Chúa Thánh
Thần: “Bà mang thai là do Chúa Thánh Thần’’ (Mt 1:20; x. Lc 1:35).
Vì được hai truyền thống Phúc Âm độc lập xác quyết, nên sự kiện
Chúa Giê-su đầu thai đồng trinh đã được các cộng đoàn ki-tô hữu
tiên khởi tin nhận là một dấu chỉ nói lên địa vị Con Thiên Chúa
của Ngài, và là dấu chỉ nói lên sáng kiến toàn thể và tuyệt đối
tự do của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể.
Các
thánh sử còn trình bày một khía cạnh khác của mẫu tính nơi Đức
Ma-ri-a, khía cạnh liên hệ đến cộng đoàn những người tiếp nhận
Lời Chúa trong đức tin và các ngài nêu bật sự hiệp thông trọn
vẹn của Đức Ma-ri-a trước những yêu sách của mẫu tính mới mẻ ấy.
Trình thuật Truyền Tin (Lc 1:26-38) cho thấy rõ tầm quan trọng
của sự đáp ứng tự do và trung kiên trong đức tin đối với ơn gọi
của Mẹ. Đức Ma-ri-a thuận ý làm Mẹ Chúa Giê-su và tự nhận mình
là “Tôi Tớ Thiên Chúa,’’ phú mình hoàn toàn cho Lời Chúa và chấp
nhận mọi yêu sách hàm ẩn trong nhiệm vụ làm mẹ. Tiếp đó, cụ Si-mê-on
cho Mẹ biết sự liên hệ giữa ơn gọi làm mẹ và toàn bộ bi kịch Đấng
Mê-si-a là điều hợp lẽ (Lc 2:34-35). Nhiệm vụ làm mẹ của Đức Ma-ri-a
sẽ phải kinh qua thử thách đức tin giữa lòng một dân tộc bị phân
rẽ do chính con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Nhưng từ thử
thách này, nhờ cuộc Tử Nạn của Chúa Giê-su và niềm tín trung của
Mẹ Ma-ri-a, dân tộc Ít-ra-en Mới, tức là Giáo Hội sẽ được sinh
ra. Và Đức Ma-ri-a cũng sẽ là Mẹ của những ai tin vào Chúa Giê-su
(Ga 19:27).
2.
Đức Ma-ri-a, Người Con
của Dân Tộc Ít-ra-en, Nữ Tử Si-on
Tín
lý thường có khuynh hướng nhấn mạnh đến khía cạnh cách biệt giữa
Đức Ma-ri-a và chúng ta, giữa đức tin của Mẹ và đức tin của chúng
ta. Còn các thánh ký Tân Ước thì trình bày Mẹ hoàn toàn thuộc
về dân tộc Ít-ra-en, Mẹ gắn bó với dân tộc này không những theo
huyết thống mà còn do đức tin và kinh nguyện của Mẹ nữa. Các thánh
sử chủ yếu phác họa Mẹ tương tự như những người đồng thời với
Mẹ, và ngay từ lúc cộng đoàn tín hữu bắt đầu hình thành quanh
Chúa Giê-su, nhất định các ngài đã nhìn ra sự hiện diện của Mẹ
trong quá trình hình thành dân tộc Ít-ra-en Mới này.
Lần
đầu tiên đề cập đến Đức Ma-ri-a, thánh Lu-ca giới thiệu Mẹ như
một người rất bình thường: “Ở một thành thuộc xứ Ga-li-lê, tên
là Na-da-rét, có một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là
Giu-se... trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a’’ (Lc 1:26-27). Tất cả, từ
tên tuổi cho đến những vụ việc trước hôn nhân cho thấy Đức Ma-ri-a
thuộc về dân tộc của lời hứa. Là con dân Ít-ra-en, hơn một lần
Đức Ma-ri-a đã biểu lộ tấm lòng tín trung vâng giữ lề luật. Mẹ
hiến dâng Trưởng Tử cho Thiên Chúa; Mẹ hiến dâng lễ vật qui định
cho người nghèo (Lc 2:22-25); và Mẹ đem Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem
mừng lễ Vượt Qua “theo phong tục ngày lễ’’ (Lc 2:41-42).
Hơn
nữa, khi trình bày vai trò của Đức Ma-ri-a, các tác giả Tân Ước
luôn sử dụng các biểu tượng Cựu Ước như muốn nói rằng các ngài
đã nhận ra Mẹ là hiện thân hoàn hảo nhất của dân tộc Ít-ra-en,
là Nữ Tử Si-on chân chính. Các hình ảnh phong phú và các đối chiếu
với Cựu Ước xây nên một điểm hội tụ mục đích rõ ràng, đó là vấn
đề phải hiểu nhân vật Ma-ri-a trong bối cảnh lịch sử của dân tộc
được tuyển chọn. Ơn gọi của Mẹ làm thành một phần ơn gọi lịch
sử của dân tộc Ít-ra-en, ơn gọi lịch sử mà Mẹ đã đưa đến chỗ hoàn
thành viên mãn.
Trong
lời chào của sứ thần Gáp-ri-en có ngụ ý về một cộng đồng. Đức
Ma-ri-a, Nữ Tử Si-on được mời gọi hãy mừng vui vì ơn cứu độ đang
đến (Xp 3:14; Dcr 9:9). Dấu chỉ Sứ Thần trưng dẫn cho Mẹ (Lc 1:36-37)
gợi về ngọn nguồn của dân tộc Mẹ. Từ đây, Chúa Giê-su, Người Con
thật của lời hứa và dân tộc Ít-ra-en Mới của Thiên Chúa sẽ được
nhập thể nhờ đức tin của Mẹ, cũng như xưa kia dân tộc Ít-ra-en
được tuyển chọn đã được sinh ra từ niềm tin của tổ phụ Áp-ra-ham.
Lời
bà Ê-li-sa-bét ca tụng đức tin Đức Ma-ri-a ngầm so sánh Mẹ với
các bậc nữ lưu vĩ đại trong lịch sử dân tộc Ít-ra-en (x. Gđt 13).
Chính bài ca tạ ơn của Mẹ cũng tràn trề hy vọng và niềm tin của
một dân tộc tin vào Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời Ngài
đã hứa. Và thái độ của Mẹ tại Ca-na (Ga 2:5) cũng hòa hợp diệu
kỳ với những điều dân tộc Mẹ đã đáp ứng tự phát đối với giao ước.
“Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo’’
(Xh 19:8; 24:3,7).
3.
Đức Ma-ri-a, Người Tín Hữu Thứ Nhất
Đối
với các thánh sử, sự cao trọng của Đức Ma-ri-a không hệ ở địa
vị làm mẹ thể lý cho bằng niềm tin sâu xa vào Lời Chúa và sự hiệp
nhất trọn vẹn của Mẹ vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô: “Phúc cho ai nghe
và giữ lời Thiên Chúa’’ (Lc 11:28).
Những
lời của Chúa Ki-tô không hề hạ thấp sự cao trọng của Mẹ Ma-ri-a,
nhưng trái lại còn ca ngợi hết sức và giải thích ngọn nguồn về
sự cao trọng ấy. Đức Ma-ri-a được diễm phúc vì đức tin của Mẹ
(Lc 1:45).
Không
phải Đức Ma-ri-a đã nhận biết hay hiểu thấu tất cả từ trước. Mẹ
đã phải hỏi sứ thần Gáp-ri-en về ơn gọi của mình “xảy ra thế nào
được.’’ Trong Đền Thờ, Mẹ cũng “kinh ngạc’’ trước những lời của
cụ Si-mê-on, và lần khác Mẹ cũng tỏ ra “áy náy’’ về thái độ của
Chúa Giê-su. Mẹ đã phải mày mò tìm hiểu mầu nhiệm ẩn chứa trong
những lời công khai đầu tiên của Chúa: “Cha Mẹ không biết rằng
Con phải ở trong nhà Cha Con sao?’’ (Lc 2:44) Mẹ cũng phải học
chấp nhận sự thay đổi trong nếp sống đơn sơ của người làm mẹ Chúa
Giê-su, đánh dấu bằng việc Chúa gọi Mẹ là “Bà’’ (Ga 2:4; 19:26).
Trong
tất cả các trường hợp ấy, người ta đều thấy Đức Ma-ri-a chăm chú
tiếp nhận và khát khao tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa: “Đức
Ma-ri-a ghi nhớ tất cả và suy niệm trong lòng’’ (Lc 2:19). Lời
Fiat của Mẹ là thái độ chấp nhận vô điều kiện đối với mặc khải
Sứ Thần đem đến. Tại Ca-na, Đức Ma-ri-a mau mắn yêu cầu các gia
nhân hãy nghe theo lời Chúa Giê-su (Ga 2:5), và tạo nên bước chuyển
tiếp sang trật tự những tương quan mới mẻ như Chúa Giê-su đòi
hỏi. Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá nói lên mức tín trung
cao vời tới độ hiệp nhất trong mầu nhiệm Chúa Ki-tô mà Mẹ đã đạt
đến nhờ việc suy niệm lời tiên báo của Si-mê-on và những lời công
khai đầu tiên của Chúa Giê-su. Nơi Đức Ma-ri-a, hơn bất cứ một
môn đệ nào khác, hạt giống Lời Chúa đã có thể sinh hoa kết trái
gấp trăm (Mc 4:8).
4.
Đức Ma-ri-a, Người Nữ
của Những Khởi Đầu và Những Thành Quả
Đức
Ma-ri-a có một vị trí đặc tuyển trong Tân Ước. Không phải vì nhất
thời hay tình cờ, sự hiện diện của Mẹ đánh dấu những giờ phút
quyết định nhất trong lịch sử dân tộc của Mẹ. Mẹ là một thành
phần gắn liền với mầu nhiệm Chúa Ki-tô.
Đức
Ma-ri-a hiện diện tại Ca-na xứ Ga-li-lê khi Chúa Giê-su thực hiện
“phép lạ đầu tiên của Ngài’’ (Ga 2:1-12), và thái độ cởi mở đầy
tin tưởng trước lời Chúa Giê-su ( “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài
dạy’’ Ga 2:5) đã sinh ra cộng đoàn tông đồ đầu tiên. Dưới chân
Thập Giá, mọi sự chưa “hoàn tất’’ (Ga 19:28) cho tới khi Chúa
Giê-su chính thức công bố ơn gọi hiền mẫu của Mẹ đối với các môn
đệ: “Hỡi Bà, đây là con Bà’’ (Ga 19:26). Khi ấy Giáo Hội được
sinh ra nhưng chưa tiếp nhận sứ mạng rao giảng của mình. Và một
lần nữa, Đức Ma-ri-a lại liên hệ mật thiết với biến cố đem Giáo
Hội đến với sứ mạng này. Khi Mẹ cùng với các Tông Đồ cầu nguyện
đón chờ (TĐCV 1:14) Chúa Thánh Thần, Đấng đã bao phủ Mẹ trong
ngày Ngôi Lời nhập thể và kiến lập nơi Mẹ một Đền Thờ bằng thịt
bằng xương của Mẹ. Đền Thờ bằng thịt xương này thay thế đền thờ
bằng đá, để nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần, làm cho Giáo Hội thành
nên Thân Thể Chúa Ki-tô.
Trong
tất cả những giờ phút Phúc Âm trải qua những khởi sự và những
thành quả đầu tiên ấy, người ta đều thấy có sự hiện diện của Đức
Ma-ri-a hiệp nhất không ngừng và tích cực với mầu nhiệm Chúa Ki-tô
và Giáo Hội.
J.P.
Pơ-rê-vô
|