|
|
Chuyển
ngữ Matthias M. Ngọc Đính, CMC |
|
Ch
12: SỰ TỐT LÀNH, THÁNH THIỆN,
VÀ HOÀN HẢO CỦA ĐỨC TRINH NỮ
Lời
Chúa Thánh Thần phán rằng: “Phúc thay người chồng nào có được
một người vợ tốt lành” (Hc 26:1). Người còn phán: “Vợ đảm đang
làm chồng hả dạ, nó sẽ được qua năm tháng an vui” (Hc 26:2). Sách
Châm Ngôn cũng dạy rằng: “Tìm được người vợ tốt lành là tìm được
hạnh phúc, và lãnh nhận một ân đức từ Giavê” (Cn 18:22), “vì cái
duyên nhị đức khiêm nhu của nàng quí hơn vàng ròng” (Cn 7:21).
Người ta có thể gặp được nhiều diễn ngữ tương tự như thế trong
khắp Thánh Kinh, chẳng hạn trong chương 31 sách Châm Ngôn đã phác
họa hình ảnh một người vợ như vậy: “Chồng bà hết lòng tin bà,
nhờ bà, ông không phải thiếu thốn gì. Suốt đời bà, bà chỉ làm
ích cho chồng, không bao giờ làm hại. Bà tìm len gai, và nhanh
tay làm việc. Giống như chiếc tàu buôn, bà cho tải lương thực
từ xa về. Bà dậy khi còn tối đất, phân phát lương thực cho người
nhà, cắt đặt mọi công việc cho các đầy tớ gái. Bà nghĩ đến một
thửa đất, bà tậu lấy, đem sức mình ra, bà trồng một vườn nho.
Bà thắt chặt dây lưng gọn ghẽ, rèn luyện hai cánh tay vững chắc
để làm việc. Bà được hưởng của cải làm ra, bà chong đèn thâu đêm.
Bà đặt tay trên khung cửi, ngón tay điều khiển trục chỉ. Bà giơ
tay đón người cùng khổ, và đỡ đần cho người túng đói. Bà không
sợ người nhà phải rét lạnh, vì cả nhà đều có áo kép. Bà tự may
chăn mền, quần áo bà may bằng vải mịn và gấm điều. Chồng bà được
trọng vọng nơi cổng thành, khi ông cùng ngồi với các trưởng lão
trong xứ. Bà dệt vải đem bán, bán dây lưng cho khách buôn. Sức
mạnh và duyên dáng là y phục của bà, bà tươi cười đón tương lai.
Bà mở miệng nói lời khôn ngoan, lưỡi bà nói lời nhân ái. Bà coi
sóc mọi việc trong nhà, bà chẳng ăn không ngồi rồi. Các con trai
bà đứng lên ca tụng bà hạnh phúc, và chồng bà khen ngợi bà rằng:
‘Nhiều người đàn bà đức hạnh, nhưng bà còn đức hạnh hơn nhiều.’
Duyên dáng là giả trá, và sắc đẹp là hư vô. Người đàn bà kính
sợ Chúa là người đáng khen ngợi. Chớ gì bà được hưởng những thành
quả của công đức bà, và sự nghiệp của bà được ca tụng ở cổng thành”
(Cn 31:1131).
Đó là hình ảnh xinh đẹp và những mỹ từ ca ngợi mà Chúa Thánh Thần
sử dụng để nói về một người nữ tốt lành thánh thiện. Nhưng chúng
ta biết tìm đâu cho được một người nữ như thế, hỡi anh Parthenius?
Một người quí giá hơn vàng bạc trân châu.
Đã có một thời gian trái đất khốn khổ này đã sở hữu được một người
như thế, nhưng nó không hề hay biết; bây giờ chúng ta phải tìm
người ấy trên thiên đàng, và chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra, người
ấy chính là Đức Mẹ Maria. Mẹ chính là Người Nữ nhân đức. Chỉ một
mình Mẹ xứng đáng với những mỹ từ ca ngợi trên. Và thật vô ích
nếu chúng ta đi tìm một người nào khác không phải là Mẹ. Chỉ một
mình Mẹ là người cao trọng, khôn ngoan, thánh thiện, vô cùng hoàn
hảo, không vương nhơ tì ố, không có một bóng mờ, không một vết
đen, rất tinh tuyền, rất mỹ lệ: “Bồ câu của tôi là xinh đẹp tuyệt
trần.”
Nếu bạn muốn, chúng ta có thể nhìn ngắm các nhân đức của Mẹ Maria.
Trước tiên, chúng ta hãy nhìn xem những ân sủng đầu tiên Thiên
Chúa đã ban cho Mẹ là gì và vĩ đại thế nào. Tiếp đó, Mẹ đã sử
dụng và làm tiến triển các ân sủng ấy như thế nào. Và sau cùng,
nhờ vốn ân sủng ấy cũng như các đặc ân cá biệt và những nhân đức
vô song, Mẹ đã và vẫn còn làm cho mình hết sức khả ái diễm kiều
không những đối với Thiên Chúa mà còn đối với loài người nữa.
Anh bạn Parthenius ơi, chúng ta bước vào cuộc bàn luận về sự thánh
thiện của Đức Mẹ Maria giống như chúng ta lặn vào một đại dương
mênh mông không bến không bờ mà tâm trí các thiên thần cũng như
người thế chưa từng và sẽ không bao giờ có thể vượt qua: vậy thì
thử nghĩ coi chúng ta làm sao có thể vượt qua. Nhưng không hề
gì, chúng ta vẫn hạnh phúc cho dù có bị chìm đắm hay lạc mất giữa
đại dương ân phúc này. Theo ý kiến chung ngày nay, ngay từ trong
lòng thân mẫu là thánh Ann, Đức Trinh Nữ rất thánh đã được tràn
đầy các ân phúc, các tập quán nhân đức, và các tài năng nhiều
hơn bất kỳ vị thánh nào trên trần gian hoặc thiên thần nào trên
thiên quốc. Các ân sủng và ân huệ ấy của Mẹ còn vĩ đại hơn, tuyệt
vời hơn tổng số các ân sủng và ân huệ của mọi thiên thần và các
thánh nhân trong quá khứ, hiện tại, và trong tương lai. Chúng
tôi sẽ không dài dòng minh chứng điều này, để cho vắn tắt chúng
tôi chỉ đề nghị độc giả hãy đọc các tác phẩm của các cha Suarez
(Suarez, T. 2, p. 3, Dist. 4, sect. i), Segneri (Segneri, Dev.
Mar. par. I, c. 3, §4), Carthagena (Carthagena, S. 1, Serm. 31),
của thánh Alphonsus Liguori (Vinh Quang Đức Mẹ, vol. 2, Disc.
2, on the Nativity), của cha Pepe (Pepe, Delle grandeoãe di Gesu
e di Maria, t. 3, lez. 136) và vô số các tác phẩm khác đã được
các tác giả trên là những người xem xét vấn đề một cách chuyên
môn trích dẫn. Quan điểm này đã được trường phái Salamanca ủng
hộ, và rất đẹp lòng Mẹ Thiên Chúa đến nỗi như lời cha Segneri
kể lại (Dev. Mar. p.1, c. 3, §5), Mẹ đã gửi lời cảm ơn cha Suarez
vì ngài đã truyền bá và mạnh mẽ cổ động cho ý kiến này.
Anh
Parthenius ơi, đó là một chân lý rất xác thực. Bây giờ bạn có
thể tưởng tượng những đặc ân này phải lớn lao vĩ đại đến đâu hay
không? Các ân ban này phải chăng vượt quá không những các ân ban
cho các thiên thần cao cấp nhất mà còn vượt quá tất cả ân ban
cho mọi thần thánh hợp lại. Cha Segneri nói rằng: “Ắt hẳn bạn
đã hiểu biết phần nào rằng số các thiên thần rất đông đến nỗi
thánh Denis, người được thánh Phaolô Tông Đồ huấn luyện, đã viết
rằng: không cần phải kể con số các thiên thần, nguyên số các đạo
binh thiên thần còn nhiều hơn mọi con số mà tâm trí kém cỏi của
chúng ta có thể nghĩ ra. Điều này khiến cho thánh Thomas (P. 3,
q. 50, art. ult.) phải dạy rằng số các thiên thần vượt quá các
vật chất thể cũng giống như các tầng trời vượt trên tất cả các
vật thể về kích thước và sự cao trọng; và vì thế chúng ta hãy
chấp nhận ý kiến mà cha Suarez đã xác quyết, rằng các thiên thần
đông đúc hơn các tinh tú trên trời, hơn cát biển và các nguyên
tử trong không khí. Nhưng các thiên thần không phải là một đám
đông hỗn loạn như cát đá hay các nguyên tử. Số lượng và phẩm trật
của các ngài rất trật tự, vị này cao hơn vị kia về các ân huệ
và bản chất. Và xét theo số lượng, thì các vị thiên thần ở bậc
thứ hai đông hơn các vị bậc thứ nhất, các vị bậc thứ ba đông hơn
bậc thứ hai, và các vị bậc thứ tư đông hơn bậc thứ ba.
Giờ đây bạn hãy giả tưởng vị thiên thần kém nhất có một độ ân
sủng, vị liền đó có hai độ ân sủng, vị kế tiếp có ba độ, và cứ
thế dần lên. Và như chúng ta đã biết các thiên thần thì vô số,
thế thì thánh Michael, đấng được xưng tụng là tổng lãnh các thiên
thần sẽ có đến bao nhiêu độ ân sủng? Rõ ràng con số cấp độ của
ngài sẽ tương đương như con số các thiên thần kém ngài, nhưng
con số này lại không thể đếm được. Thế rồi, như bạn đã biết, vị
thiên thần kém nhất đâu phải chỉ có một độ ân sủng, nhưng là hàng
ngàn hàng vạn độ. Và nếu xét về bản tính thiên thần, ai có thể
hiểu được vị đứng đầu toàn thể đạo binh các thiên thần dũng mạnh
và vô số như thế sẽ có bao nhiêu cấp độ mới xứng với địa vị của
ngài?
Thiên
Chúa trào đổ một kho tàng phong phú khôn sánh xuống cho Hiền Mẫu
tương lai của Ngài ngay từ giây phút đầu tiên khi được dựng thai.
Như các tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa đã ban cho Mẹ các ơn thánh
nhiều hơn tổng số ơn thánh được ban cho tất cả các thiên thần
và các thánh hợp một: thật là một kho tàng lớn lao khôn lường
Thiên Chúa đã trào đổ xuống cho Thụ Tạo diễm phúc này! “Những
nền móng của thành thánh Thiên Chúa được đặt trên các ngọn núi
thánh cao” (Tv 22) vì mức khởi đầu của Mẹ là mức đến của các thánh;
và do đó, như lời cha La Colombiere giải thích (Serm. 32) “Chúa
dấu yêu các cổng tức là mức khởi đầu của Sion hơn tất cả các nhà
tạm đã được hoàn chỉnh của nhà Jacob,” ngay từ giây phút đầu tiên
ấy, Mẹ đã thánh thiện và làm thỏa lòng Thiên Chúa, xứng đáng với
tình yêu và ân sủng của Người hơn tất cả các phúc nhân hợp một.
Thành ra giả sử bắt buộc phải thực hiện một sự lựa chọn, thì Thiên
Chúa sẵn lòng hủy diệt toàn thể các thiên thần có lẽ còn đông
hơn một trăm tỉ lần tổng số nhân loại từ tạo thiên lập địa cho
đến tận thế; Chúa sẵn sàng không tạo dựng nhiều triệu vị thánh
tử đạo, hiển tu, đồng trinh, và các hối nhân cho đến khi mãn tận
thời gian để chỉ cứu lấy duy nhất Thụ Tạo diễm phúc này là Đấng
được chính tay Người tạo thành mà thôi. “Mẹ vượt trên tất cả các
thánh, trên tất cả các thiên thần.”
Thật hữu lý khi Chúa tách biệt Đức Nữ Vương khỏi những người tôi
tớ, vị Hiền Thê và Hiền Mẫu của Người khỏi những quần thần của
Người. Mẹ Maria đã được ưu tuyển và nâng lên phẩm cách tuyệt đỉnh
là làm Mẹ Thiên Chúa, đó là một trật tự, một phẩm chức siêu vượt
trên tất cả những gì được tạo dựng và kề sát giới tuyến của Thiên
Tính theo lời thánh Thomas Tiến Sĩ (Sum. Theol. 2, 2dae, qu. 103,
art. 4, ad 2um). Chỉ mình Mẹ đã được tiền định cho một danh dự
cao vời như thế, nên ngay từ giây phút đầu tiên khi xuất hiện
trên trần gian, Mẹ đã đắc thủ và tràn đầy những ân huệ và ân sủng
để được tôn nhận và tôn vinh là Hiền Mẫu tương lai của Thiên Chúa
và của toàn thể vũ trụ tạo vật; và cũng ngay từ khởi điểm ấy,
Mẹ đã được ban tràn đầy một sản nghiệp và vô số ân sủng để Mẹ
chuyển thông và làm tiến triển tăng bội. Mẹ đã trở nên xứng đáng
với danh dự và phẩm chức thánh hảo đó.
Ôi, Mẹ đã làm lợi được biết bao từ nén bạc vĩ đại ấy! Lời sách
Châm Ngôn nói rằng: “Bà được hưởng của cải làm ra, bà chong đèn
suốt đêm” (Cn 31:18). Người Nữ nhân đức này thấy ngay rằng vốn
ân sủng mình đã được lãnh nhận thật quá lớn lao, và cần thiết
phải lo toan đến nó, và do đó, Mẹ đã áp dụng ân sủng ấy cho chính
Mẹ, và ngay cả trong đêm tối, Mẹ cũng không tắt ngọn đèn của mình
để nghỉ ngơi và ngừng nỗ lực.
Các vị tiến sĩ trong Giáo Hội luôn xác quyết rằng Mẹ đã làm tăng
bội kho tàng ơn thánh vĩ đại mà Mẹ đã được lãnh nhận trong từng
hành vi. Các thiên thần đã tăng triển về ơn thánh trong thời gian
chịu thử thách ngắn ngủi, vậy tại sao chúng ta lại chối bỏ điều
đó trong trường hợp của Đức Nữ Vương của các thiên thần? Thánh
Albertus Magnus đã phát biểu như một nguyên tắc rằng: bất kỳ đặc
ân nào được ban cho các thuộc quyền của Mẹ thì không thể bị chối
từ không ban cho Mẹ (Lib. de B. M. 69, 70, 71). Vâng, tại sao
lại không? Mẹ đã được giữ gìn khỏi mọi tội lụy nguyên tổ, Mẹ đã
được lãnh nhận ngay tức khắc việc sử dụng hoàn hảo lý trí, và
mọi ánh sáng từ Thượng Trí Thiên Chúa, để nhìn biết Chân Lý muôn
đời, sự đẹp đẽ của nhân đức, sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa,
và công trạng vô cùng của Đấng được mọi người yêu mến – nhưng
đặc biệt là Mẹ biết rằng Mẹ đã được ưu tuyển từ trước, và được
tách biệt cùng với muôn vạn ân huệ và ân sủng. Mẹ được miễn chước
khỏi mọi đam mê, khỏi mọi ràng buộc thế gian, khỏi mọi sự động
đạc lăng loàn. Mẹ đã được miễn khỏi mọi chia trí, khỏi mọi cám
dỗ của giác quan, khỏi mọi chống đối của các đam mê rối loạn,
và trở nên không thể phạm tội, không phải theo bản tính, nhưng
theo ân sủng, và được ban tràn đầy những tập quán nhân đức rất
thánh. Như thế hỏi rằng bạn có còn có thể cho Mẹ là người ở nhưng
hay không? Ồ, không, ngay từ giây phút đầu tiên ấy, Mẹ đã hướng
trọn tâm hồn về Thiên Chúa với tất cả sức mạnh của tâm hồn. Và
trong suốt cuộc đời, Mẹ không bao giờ ngừng hợp nhất với Đấng
là trung tâm điểm của Mẹ bằng những hành vi yêu mến nồng nàn và
khắng khít hơn mãi đến nỗi làm các luyến thần phải kinh ngạc.
Lạy Chúa thiên đàng, tình yêu nào, ngọn lửa nào đã bừng cháy trong
Trái Tim Mẹ, một trái tim tuy nhỏ bé, nhưng được tan hòa với một
sức nóng nồng nàn vĩ đại!
Các
thần học gia dạy rằng khi hành động vì tình yêu Chúa, chúng ta
đáng được một phần thưởng: đó là đức ái, nguyên lý hành động của
chúng ta sẽ được gia tăng tương xứng với lòng sốt sắng khi chúng
ta hành động. Chẳng hạn: khi linh hồn của bạn có hai độ yêu mến,
và bạn thực hiện một hành vi yêu mến Thiên Chúa với tất cả cường
lực của hai độ này, thì bạn được thêm hai độ nữa, và bạn trở nên
thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa hai lần nhiều hơn trước kia.
Nếu bạn lại làm thêm một hành vi thứ hai bằng tất cả độ sốt mến
của bạn sau khi đã được gia tăng đức ái này, thì kho tàng của
bạn được tăng gấp đôi lần nữa. Nếu bạn cứ tiếp tục gia tăng vốn
ân sủng của bạn như thế, thì hành vi thứ ba sẽ đem lại cho bạn
16 độ thánh thiện, hành vi thứ tư là 32, hành vi thứ năm là 64.
Và cứ thế, cứ thế vốn ân sủng và đức ái của bạn sẽ gia tăng mãi
hơn lên.
Đức Maria có tất cả những tập quán nhân đức tâm linh, nhất là
đức ái đối với Thiên Chúa. Mẹ nhận được sự trợ giúp và ân sủng
hiệu quả nhất, và Mẹ trung thành đáp ứng bằng các hành vi sốt
sắng và hăng say nhất. Mẹ đã làm hết khả năng của Mẹ, và không
ngừng hành động trong đức ái hoàn hảo tuyệt vời. Như vậy, bạn
lại không nghĩ rằng trong từng giây phút Mẹ lại không nhân thừa
gấp đôi cấp độ vốn ân sủng của Mẹ hay sao?
Ngay trong hành vi yêu mến Chúa đầu tiên của mình, Mẹ đã nhân
gấp đôi tài năng quí báu mà Mẹ đã được lãnh nhận; thành ra, giả
sử giây phút đầu tiên Mẹ chỉ có 1.000 độ ân sủng, thì sau hành
vi yêu mến đầu tiên, Mẹ sẽ có được 2.000 độ, sau hành vi thứ hai,
Mẹ sẽ có 4.000 độ, sau hành vi thứ ba, Mẹ sẽ có 8.000 độ, sau
hành vi thứ bốn, Mẹ sẽ có 16.000 ngàn độ. Giờ đây, bạn hãy nhân
lên với số ngày trong một năm, và giả sử cho dù điều này không
đúng mỗi ngày Mẹ chỉ thực hiện duy nhất một hành vi yêu mến Thiên
Chúa mà thôi. Chúng tôi chắc chắn từ ngữ số học không có tên gọi
cho con số mà bạn tính được.
Trong tác phẩm của mình, cha La Colombiere (Serm. 31) kể lại câu
chuyện của các nhà toán học. Họ tính rằng nếu một thương gia làm
lợi được mỗi ngày một xu, như vậy, ngày thứ hai ông ấy sẽ được
hai xu; ngày kế tiếp được bốn xu; ngày sau đó, được tám xu; ngày
hôm sau nữa, được mười sáu xu. Và cứ thế – họ tính được một cách
xác thực (ai có thể nghi ngờ các nhà toán học) rằng đến ngày thứ
sáu mươi tư, số tiền thương gia này có được sẽ là 82.982.265.158.000.596
đồng và 16 xu (tám mươi hai ngàn chín trăm tám mươi hai tỉ hai
trăm sáu mươi lăm triệu năm trăm chín mươi sáu đồng mười sáu xu).
Và nếu thương gia này bắt đầu từ ngày thứ nhất đã làm lợi được
một đồng thay vì một xu, thì cuối ngày thứ sáu mươi tư, ông ấy
sẽ sở hữu được một số vàng có thể đúc được sáu mươi quả cầu vàng,
mỗi quả to bằng trái đất này.
Một
câu chuyện khác cũng phổ biến không kém là câu chuyện của người
bán ngựa. Ông muốn bán một con ngựa quí nhưng không dựa trên phẩm
chất của con ngựa mà thách giá nhưng dựa vào tổng số đinh đóng
trên các móng ngựa: sau khi thỏa thuận rằng chiếc đinh thứ nhất
là một xu, chiếc thứ hai hai xu, chiếc thứ ba bốn xu, và cứ thế
cho chiếc thứ ba mươi hai. Số tiền tổng cộng người này sẽ được
là 214.748.364 đồng (hai trăm mười bốn triệu bảy trăm bốn mươi
tám ngàn ba trăm sáu mươi tư đồng).
Nếu chúng ta lấy một bàn cờ có 64 tư ô, rồi đặt ở ô thứ nhất một
hạt bắp, ô thứ hai hai hạt, ô thứ ba bốn hạt. Và cứ thế chúng
ta nhân đôi số hạt bắp lên ở mỗi ô cho đến ô thứ 64, số hạt bắp
sẽ nhiều hơn cả tất cả số bắp hiện có trên thế gian này. Bởi vì
số bắp ấy cần phải có 1.779.190.850 (một tỉ bảy trăm bảy mươi
chín triệu một trăm chín mươi ngàn tám trăm năm mươi) con tàu
để chuyên chở, mỗi con tàu sẽ chở 3.000 thùng, mỗi thùng có thể
tích 36 lít.
Bây
giờ chúng ta giả sử Đức Trinh Nữ được lãnh nhận chỉ một độ ân
sủng trong giây phút Mẹ được đầu thai vô nhiễm, và Mẹ cứ mãi tăng
triển mức độ này trong từng khoảng thời gian một khắc đồng hồ,
thế thì trong khoảng 64 khắc, tức là trong 16 tiếng đồng hồ, Mẹ
đã đạt đến 82.982.165.158.568.796.600 (tám mươi hai tỉ chín trăm
tám mươi hai triệu một trăm sáu mươi lăm ngàn TỈ của một trăm
năm mươi tám tỉ năm trăm sáu mươi tám triệu bảy trăm chín mươi
sáu ngàn sáu trăm) độ ân sủng. Thật là một cao độ tuyệt đỉnh ân
sủng mà Mẹ đã đạt đến vào giây phút cuối cuộc đời 72 năm trường
của Mẹ. Và chắc chắn, mức ân sủng đầu tiên của Mẹ không phải chỉ
là một độ, nhưng còn cao hơn tổng số ân sủng Thiên Chúa ban cho
đức tổng thần Michael và toàn thể các thiên thần các thánh hợp
lại, hơn nữa Mẹ làm tăng bội mức độ ân sủng Chúa ban cho Mẹ đâu
phải lâu đến một khắc đồng hồ, nhưng là từng giây từng phút. Và
vì Mẹ không hề thực hiện một hành vi nào mà không có chủ ý, ngay
cả trong lúc ngủ, Mẹ cũng không ngừng hoạt động nội giới và đạt
được công trạng như nhiều tác giả uyên bác đã dạy. Cha La Colombiere
nói rằng: “Tôi chẳng gặp một khó khăn nào để hiểu được các thần
học gia khi họ dạy rằng Đức Trinh Nữ rất thánh chỉ một khắc đồng
hồ sau khi được đầu thai vô nhiễm đã tỏ ra 500 độ ân sủng cho
từng người đã được sinh ra hay sẽ được sinh ra trên đời. Và chúng
ta phải tin rằng không có một sự giảm sút nào nơi Mẹ.”
Cha Segneri còn nói rằng: “Kho tàng lớn lao hầu như vô cùng này
còn được gia tăng thêm ân sủng mà các nhà thần học gọi là thành
hiệu bởi sự (ex opere operato), tức là hiệu quả không tùy thuộc
vào hành vi và nỗ lực của linh hồn, nhưng được Thiên Chúa ban
cho linh hồn vì công nghiệp của Chúa Kitô. Và ai có thể kể được
những dòng suối ân sủng nào Ngôi Lời Hằng Hữu đã tràn đổ xuống
lòng Mẹ khi Mẹ thụ thai và cưu mang Ngài trong thời gian chín
tháng, khi Mẹ sinh hạ Ngài cho gian trần, khi Mẹ nựng ru Ngài
trong lòng và cho Ngài bú; trong những cuộc chuyện vãn thân mật
Mẹ Con, trong cuộc thương khó và tử nạn thống khổ cực độ của Ngài
mà Mẹ đã tích cực thông phần, và trong cuộc phục sinh và lên trời
vinh hiển của Ngài. Ai có thể kể được những ân huệ phong phú mà
Người Bạn cực thánh của Mẹ là Chúa Thánh Thần đã mang xuống cho
Mẹ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Và mỗi ngày một lần, khi Mẹ được lãnh
nhận một cách mầu nhiệm Mình và Máu cực thánh Con Mẹ, theo như
ý kiến của nhiều vị tiến sĩ và tập quán của các tín hữu thời Giáo
Hội sơ khai, sau khi Chúa lên trời và cứ thế cho đến cuối đời
của Mẹ là 8.800 lần (tính trong quãng thời gian 24 năm Mẹ sống
sau khi Chúa lên trời).
Anh bạn Parthenius ơi, chúng tôi đã bị lạc mất giữa đại dương
ân sủng này; nhưng chúng tôi rất vui mừng vì được như thế, và
nhờ đó mà chúng tôi được uống lấy chỉ một giọt mà thôi. Và Chúng
tôi kết thúc ở đây bằng những lời của thánh Bernadine (Serm. 51)
rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới hiểu được đầy đủ về ân sủng và
sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ rất thánh.
|
|