dongcong.net
 
 

Những câu chuyện giáng sinh …


NHỮNG CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH từ 21-23 :

21-QUÀ GIÁNG SINH CHO CON
Lễ Giáng Sinh

Sắp đến lễ Giáng sinh rồi mà trong văn phòng ông Giám đốc một xí nghiệp còn chồng chất bao nhiêu công việc. Hầu như ngày nào cô thư ký cũng phải làm thêm giờ phụ trội.

Thấy ông Giám đốc lính quýnh nhìn đồng hồ rồi nhìn lịch treo tường, cô thư ký hỏi:
- Thưa ông, còn phải làm việc gì nữa không?
Ông đáp:
- Chúng ta phải ra về thôi, muộn rồi, cũng chẳng làm thêm được việc gì nữa.
Cô thư ký mỉm cười nói:
- Thật ra, còn một việc nữa cần phải làm sớm, đó là mua quà cho con gái cưng của ông. Ông đừng quên là chỉ còn hai hôm nữa là tới lễ Giáng sinh rồi đó.

Ông Giám đốc giơ hai tay ôm đầu nói:
- Thật may là cô nhắc, suýt nữa tôi quên mất. Ngày nào cũng bao nhiêu công việc dồn dập. Có lẽ con bé sẽ giận tôi lắm. Mỗi buổi tối khi tôi về đến nhà thì nó đã ngủ say. Ít khi tôi có thì giờ nói chuyện hoặc chơi với con gái tôi, nhưng ít là dịp lễ Giáng sinh tôi muốn tặng nó một món quà thật đẹp mà nó ưa thích. Nhưng tôi cũng không có thì giờ đi mua cho nó. Hay là cô mua dùm tôi nhé ? Cô đọc dùm tôi lá thư nó gởi cho tôi xem nó muốn gì, tốn kém bao nhiêu cũng được, nó thích gì cô cứ mua cho nó.

Cô thư ký mở tờ giấy hồng mà cô bé nguệch ngoạc mấy hàng chữ. Cô đọc qua rồi mỉm cười lắc đầu với ông Giám đốc. Ông Giám đốc ngạc nhiên hỏi:

- Có điều gì khó khăn đến nỗi không thể làm vui lòng một đứa trẻ 8 tuổi, nó muốn gì vậy? Cô đưa lá thư cho tôi xem.
Cô thư ký trao cho ông Giám đốc lá thư với mấy hàng chữ của con gái cưng như sau:

Ba yêu dấu của con,
Con chỉ xin Ba cho con một món quà Giáng sinh này, là bắt đầu từ năm mới mỗi ngày, Ba dành ra nửa tiếng đồng hồ để chơi với con, con không xin gì thêm nữa đâu.
Con cưng của Ba
Mến thương
***

Giáng Sinh là lễ của Tình yêu. Không phải là lễ của những món quà vật chất, đắt tiền nhưng không gói ghém được tình yêu thương. Sống trong thế giới hưởng thụ, người ta chỉ nghĩ đến vật chất. Món quà càng đắt tiền thì càng có giá tri. Nhưng thật ra chỉ có quà tặng thắm đượm tình thương mới có giá trị lớn nhất. Paul Claudel có nói: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ không phải chỉ trên đôi tay."

Thánh Phalo cũng nhắc nhở: "Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài tình thương mến". Vì thế quà tặng chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi nó nói lên tình cảm sâu sắc, sự quan tâm tế nhị, lòng yêu mến chân thành. Do đó, tặng quà không có nghĩa là cho đi của cải dư thừ, mà chính là trao tặng chính bản thân mình. Bà góa dâng cúng trong đền thờ hẳn phải là tấm gương để chúng ta noi theo. Dù chỉ bỏ vào thùng tiền 2 đồng xu nhỏ, nhưng Chúa Giêsu đã khen ngợi: "Bà đã cho nhiều nhất, vì bà đã cho chính một phần sự sống của mình".

Có thể nói, quà tặng được coi là quí giá nhất phải là quà tặng dốc cạn túi. Trao ban đích thực chính là trao ban thì giờ, trao ban sự tôn trọng, trao ban lòng quí mến, trao ban sự thứ tha. Đó là quà tặng cao quí nhất mà mọi người đang chờ đợi nơi chúng ta.

Trong mầu nhiệm Giáng Sinh, qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa muốn trao ban chính Ngài cho loài người. Ngài không chỉ hài lòng với món quà vật chất mà Ngài đã ban tặng như vũ trụ bao la với muôn vàn phúc lộc trong đó, nhưng Ngài đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người. Chúa Giêsu là hiện thân rõ nét và sống động nhất của tình thương vô biên và lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với con người. Đức Chúa Giêsu là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa Cha đã trao ban cho loài người.
***
Lạy Chúa, xin cho những nghĩa cử con làm cho anh em luôn được đi kèm với lòng yêu thương chân thành. Xin cho con cảm thấy mình được lớn lên trong tình yêu Chúa mỗi khi con thực thi một nghĩa cử yêu thương nào đó cho anh em con. Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã trao ban trọn vẹn cho nhân loại chúng con. Xin cho con luôn ý thức rằng sống đích thực là sống trọn vẹn cho tha nhân. Amen!
Thiên Phúc
Ký tên- Thiên Phúc

22-LAN MAN TỪ CHUYỆN TẤM THIỆP

Quá nửa tháng 12, sắc màu Nô-en ngập tràn phố xá. Cái lạnh se sắt tụt xuống dưới không độ, và bầu trời mùa đông xam xám - chợt mưa bay, chợt nắng nhẹ, chợt tuyết rơi - không làm chồn chân dòng người lũ lượt dạo phố, mua quà. Tôi ghé vào một bưu điện gần nhà, khu trung tâm Paris, mua vài tấm thiệp Giáng Sinh gửi người thân. Thiệp ‘Nô-en’ có rất nhiều, nhưng thiệp ‘Giáng Sinh’ tìm hoài không thấy! Nào thông xanh, nào nến sáng, nào chuông vàng, nào ông già tuyết, nào tuần lộc..., nhưng tìm mãi không ra một tấm thiệp có hình em bé Giêsu, dù chỉ nhạt mờ! Chợt nhớ, từ lâu đã từng nghe, đất nước và dân tộc này một thời là “trưởng nữ của Giáo Hội.” Nhưng thời ấy đã xa lắm rồi...  

... Và bỗng thấy mình vô duyên khi chỉ là ‘khách qua đường’ lại thầm tiêng tiếc cho người về một điều mà chính người không hề tiếc, thậm chí đó là điều mà người tự hào. Người Pháp, ngót 60 phần trăm là Công Giáo, vẫn tự hào về tính thế tục (sécularisation) nơi xã hội và quốc gia của họ. Dấu mốc quyết định của tính thế tục này là Sắc Luật ‘Séparation’ hồi 1905, cách đây vừa hơn một thế kỷ, trong đó nền Đệ Tam Cộng Hòa dứt khoát tách rời nhà nước khỏi nhà thờ. Nghe cứ như một cuộc hôn nhân có nhiều vấn đề, đến nỗi cuối cùng phải chọn giải pháp ‘đường anh anh đi, đường em em đi’ vậy!  

Không biết những người trong Giáo Hội thời đó có thấy phũ phàng và có buồn tiếc nhiều về cuộc ‘ly thân’ bất khả kháng ấy không. Thực ra, bình tâm mà ngẫm thì chắc ai cũng thừa nhận rằng cuộc ‘ly thân’ ấy là một bước nhảy văn minh hơn trong đời sống xã hội Pháp: một xã hội muốn thượng tôn nguyên tắc tự do lương tâm, tự do tôn giáo; trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về tôn giáo, không can thiệp hay dính dáng đến bất kỳ tôn giáo nào.  

‘Ly thân’ là để ‘nàng’, hay ‘chàng’, hay cả hai, được giải phóng; nhưng trách nhiệm đối với ‘con cái’ thì vẫn còn: Những cơ sở thờ tự của các tôn giáo tồn tại trước 1905 vẫn tiếp tục là cơ sở thờ tự, nhưng thuộc tài sản nhà nước và nhà nước có bổn phận bảo trì. Mấy tháng trở lại đây, ai đi ngang qua ngôi nhà thờ Saint-Sulpice (to lớn ước gấp đôi nhà thờ Chính Tòa Đà Nẵng) gần Vườn Luxembourg, sẽ thấy những giàn giáo tua tủa và những cần cẩu gầm gừ chỗ tháp chuông tiền đường. Thế nhưng các cha của giáo xứ và bà con giáo dân vẫn khỏe re, chẳng phải lo gì. Hỏi ra mới biết việc bảo trì nhà thờ ấy là bổn phận của nhà nước, không phải của ‘mình’. Thế đấy, thật ngộ, một nhà nước đặc trưng tính thế tục và không can thiệp hay dính dáng gì đến tôn giáo, lại có bổn phận sửa chữa tái thiết nhà thờ! Thoạt nghe hay nhìn thấy chuyện như vậy, dễ tưởng đó là cái gì nhập nhằng, giẫm chân. Nhưng thực ra, đó chỉ là chuyện sòng phẳng, rạch ròi, và ... “theo đúng qui định của pháp luật”.  

Tính thế tục của quốc gia được thấy bàng bạc trong các ngóc ngách đời sống văn hóa xã hội. Người Pháp vô tư chọn Sarkozy làm người lãnh đạo của mình vì tài kinh bang tế thế của ông; còn chuyện ông li dị hai lần và kết hôn ba lần chỉ là chuyện riêng của ông ấy, chẳng liên can gì – (người Mỹ hẳn sẽ thấy như vậy là liên can nhiều lắm đấy!)  

Một đàng, tính thế tục ấy có thể phản ảnh một cấp độ văn minh; song đàng khác, trong thực tế, không phải là nó không đi quá xa, khiến cho Giáo Hội phải rầu. Một ví dụ là mô hình PACS (Pacte Civil de Solidarité, tạm dịch: Khế Ước Dân Sự về Sống Chung) mà mới hồi tháng trước người Pháp kỷ niệm 10 năm tồn tại của nó cách khá tưng bừng. Đây là một sắc luật công nhận sự sống chung giữa hai người, đồng giới hay khác giới, với cộng đồng tài sản, với sinh con đẻ cái (nếu sinh đẻ được!), mà ... không phải là hôn nhân! Trong 10 năm qua, hơn 500.000 đôi (đa số là nam-nữ, song cũng có một số là nam-nam hoặc nữ-nữ) đã chọn ký loại khế ước này. Và biểu đồ thống kê cho thấy con số đang trên đà tăng rất nhanh. Tính riêng năm 2008, nếu cả nước có 273.500 đôi nam nữ kết hôn dân sự chính thức, thì cũng có đến 146.084 đôi chọn kết hợp với nhau theo mô hình PACS này. Bên ta, chuyện ‘sống thử’ tuy là trào lưu leo thang đến mức báo động khẩn cấp rồi, song cũng còn đỡ, vì quốc hội chưa làm luật để hợp pháp hóa nó theo kiểu PACS của dân tây.  

Người Pháp, cũng như nhiều dân khác, đang ở trong một căng thẳng giữa một bên là tính thế tục chính đáng của cơ cấu xã hội và bên kia là chiều kích tín ngưỡng tâm linh vốn là nhu cầu sâu xa vẫn ray rứt nơi con người, cá nhân hay cộng đồng. Sự căng thẳng này phần nào bộc lộ, chẳng hạn, như hồi năm 2000 họ đã bãi bỏ điều 30 của Sắc Luật ‘Séparation’, là điều vốn qui định “cấm dạy tôn giáo trong các lớp học ở trường công.” Rồi năm 2003, thêm một tu chính nữa theo chiều hướng mở rộng, liên quan đến các qui định về các dấu hiệu tôn giáo công khai tại trường học. Năm sau, 2004, Nicholas Sarkozy – lúc bấy giờ vừa mới chuyển từ bộ trưởng Nội Vụ sang làm bộ trưởng Kinh Tế và Tài Chánh –  đã đề nghị trao cho nhà nước các phương tiện để có thể kiểm soát hữu hiệu tài chánh của các tôn giáo, cách riêng của Hồi Giáo (là cộng đồng trong thực tế đang được rót tiền đáng kể bởi những người đồng đạo ở Cận Đông và Trung Đông.) Sự kiểm soát này, theo ông, nhằm giúp giải phóng Hồi Giáo ở Pháp khỏi những sự giám hộ đáng ngờ, và có thể hạn chế những trệch hướng về phía quá khích và khủng bố, vốn có thể bộc phát giữa lòng các cộng đồng Hồi Giáo Pháp.  

Xem thế, mối căng thẳng đạo / đời của người Pháp cũng mang trong mình nó những dấu hiệu tích cực đấy chứ. Họ đã vất vả nhiều, và va vấp cũng nhiều, mới ‘có’ được sự căng thẳng của ngày hôm nay, một sự căng thẳng xem chừng đáng được đặt tên là ‘thiện chí’, vì cả hai đầu của sợi dây đều muốn chứng tỏ thiện chí của mình. Và khi người ta có thiện chí thì người ta có quyền hy vọng. 

Ở Việt Nam mình, mối căng thẳng đạo / đời đang có thừa, cách riêng trong mối tương quan giữa Giáo Hội Công Giáo và nhà nước Cộng Sản. Lịch sử của mối tương quan này đầy gai góc, như những gì đã diễn ra từ năm 1945 cho đến nay: từ đối đầu kịch liệt đến chấp nhận sống chung với ít hay nhiều miễn cưỡng. Mối tương quan này sẽ diễn biến theo chiều hướng nào, nó có cho phép hy vọng gì không? Câu trả lời, dĩ nhiên, tùy ở thiện chí của cả hai đầu sợi dây. Thiện chí là ‘muốn điều tốt’. Người Công Giáo Việt Nam không thể ‘muốn điều tốt’ dùm cho những người Cộng Sản đang nắm quyền. Nhưng nguyên việc bảo đảm rằng điều mình mong muốn cho chính mình là điều thật sự tốt cũng không hề đơn giản. Có thể mình vẫn muốn hay vẫn mơ một ‘hoàng kim thời đại’ nào đó chăng? Thiển nghĩ, cuộc ‘ly thân’ giữa nhà nước và nhà thờ ở Pháp, và tính thế tục mà họ quyết chọn cho thể chế của họ từ đó đến nay, dù có trầy trật, cũng có thể giúp mình như một phép thử... 

Chợt nghĩ, việc không tìm thấy Hài Nhi Giêsu trên các tấm thiệp Nô-en chỉ là chuyện ... nhỏ thôi. Tôi mua mấy tấm thiệp Nô-en không có Chúa, tự nhủ rằng “Chắc Chúa cũng chẳng quyết đòi cho được có mặt trên những tấm thiệp này.” Nghĩ thì nghĩ vậy, mà sao tư tưởng vẫn cứ còn lan man...                                                       
Lm. Giuse Lê Công Đức
19.12.2009

23-GIÁNG SINH VÀ NHỮNG BẤT NGỜ KỲ DIỆU TỪ MỘT CA KHÚC.

Giáng sinh tưng bừng. Giáng sinh rợp trời hoa đèn dủ sắc mầu lung linh huyền ảo.

Giáng sinh nếu chưa mang lại niềm vui thánh thiện, thì ít nhất, Giáng Sinh cũng là một niềm vui lớn lao của biết bao gặp gỡ thân tình thương mến.

Từ rất lâu, Giáng sinh không chỉ là ngày Đại lễ của người Công giáo, nhưng đã trở thành một lễ hội lớn của mọi người thuộc nhiều xã hội và tôn giáo khác nhau.
Tính phổ cập của Kitô giáo được thể hiện rất rõ qua Đại lễ Giáng sinh, đặc biệt, Giáng sinh còn gắn liền với một bài Thánh ca, tuy là Thánh ca của nhà đạo, nhưng đã được mọi giới qua mọi thời đại nhiệt tình đón nhận và thiết tha yêu mến. Đó là ca khúc : “Đêm thánh vô cùng”, ca khúc này có một lịch sử rất thú vị.

Bất ngờ và kỳ diệu 
“Stille Nacht” Tiếng Áo, “Silent night”, tiếng Anh hoặc “Đêm thánh vô cùng”
Thật là thú vị, khi được biết ca khúc vô cùng danh tiếng ấy lại được sáng tác bởi người không phải là nhạc sĩ, trong một hoàn cảnh bất đắc dĩ, buộc phải sáng tác.   

Đêm vọng Giáng Sinh, tức đêm 24/12 năm 1818, cây đàn Organ của Nhà thờ Thánh Nicholas (Nicola-Kirche) ở Obendorf thuộc nước Áo đột nhiên bị hỏng.

Cha xứ là Linh mục Josef Mohr rất bối rối không biết tính sao, đang lúng túng thì Ngài chợt nhớ tới một bài thơ ngắn mà Ngài đã sáng tác từ 2 năm trước đó (1816). Bài thơ rất đơn sơ này có tựa là “Đêm Thánh”. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, cha xứ muốn có một ca khúc mới dành cho lễ nửa đêm, nhưng làm sao bây giờ, vì Ngài không phải là nhạc sĩ để có thể phổ nhạc bài thơ này ?

Làm sao bây giờ, khi gần hết hạn và Thánh lễ nửa đêm sắp bắt đầu ?
Một ý nghĩ lại sáng lên, còn ai khác trong lúc này, ngoài Frank Gruber, là người vẫn thường chơi đàn Organ cho nhà thờ, ông là giáo viên và cũng là bạn thân của Cha. Thế là, Ngài đã tìm gặp ngay F. Gruber để nhờ soạn phần giai điệu và phối âm bài thơ “Đêm thánh”, nhưng …bằng đàn Guitar.

Lúc đầu, F. Gruber không đồng ý với đề nghị của J. Mohr, vì e rằng giáo dân đến dự lễ sẽ không thích loại âm nhạc được trình bày với đàn guitar vì vốn vẫn quen với đàn Organ xưa nay. Nhưng vì không còn sự lựa chọn nào khác, F. Gruber đành phải chấp nhận và bắt tay vào việc. Hết sức bất ngờ, chỉ trong vài giờ đồng hồ, phần nhạc của ca khúc được hoàn tất.

Thoạt tiên, những người dự lễ tỏ ra kinh ngạc khi nghe ca khúc được trình bày với đàn guitar, nhưng chẳng bao lâu mọi người bị mê hoặc bởi giai điệu ngọt ngào của bài hát.

Kể từ đó bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng đã trở thành một bài hát gây ấn tượng nhất cho đêm thánh giáng sinh hài nhi Ki-tô.

Dẫu cùng niềm tin hay không, người ta cũng không thể không rung động trước những vẻ đẹp, và đặc biệt, là nét đơn sơ nhưng rất sâu sắc của bài hát, chính vì thế đã lan rộng khắp địa cầu như một điều tự nhiên.

Bài Đêm Thánh Vô Cùng đã được chuyển ngữ sang nhiều thứ tiếng trên hoàn vũ. Người ta còn hát với tiếng Et-ki-mô và với thổ ngữ Ban-tu ở Phi Châu. Không có một âm hưởng nào, đời hay đạo, được quốc tế biết tới nhiều như bài thánh ca Giáng sinh khiêm nhu này của Áo quốc.
Ca khúc Giáng sinh này đã được dịch ra hơn 300 thứ tiếng trên khắp thế giới, và là một trong những bài hát được yêu thích nhất trong mọi thời đại. Ca khúc vẫn thường được trình diễn không cần nhạc đệm. Mặc dù được sáng tác bởi hai tín hữu Công giáo, nhưng bài hát này đã có một vị trí đặc biệt trong các nhà thờ thuộc Giáo hội Luther.

Xuyên qua lịch sử Ki-tô giáo, bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng đã trở thành một biểu tượng chân thực cho mầu nhiệm sâu kín, đêm Thiên Chúa giáng trần của người tín hữu Ki-tô.

Thực tế, có chăng một đêm nào êm dịu hơn, thánh thiêng hơn, cái đêm được nhìn thấy một hài nhi, vị Sứ giả của Trời cao, sinh ra trong một máng cỏ nơi chuồng súc vật, trong khi đó, các gia súc quen thuộc như bò và lừa lại thổi hơi cho ấm hài nhi? Chuyện hoang đường hay sự thật? Thật không quan trọng về điều này, vì niềm tin không thể áp đặt cho ai, nhưng trọng điểm dễ nhận biết là, ca khúc đã khơi động niềm xúc cảm cho nhân loại.

Thật khá lý thú, khi mà hầu hết các âm hưởng nhạc Giáng sinh truyền thống đều bị mai một hoặc thay đổi, trong khi âm hưởng của bản Stille Nacht vẫn lưu giữ được nguyên vẻ trong sáng về hình thức và cách cấu trúc ban đầu.

Sự kiện đáng chú ý và cảm động hơn nữa, là bài Đêm Thánh Vô Cùng có từ nguồn gốc Ki-tô giáo đã được các tôn giáo khác đón nhận. Có nơi tại Á Châu còn hát bài này ngay cả trong những đền Chùa Phật giáo…

Mọi người đều biết rằng trong thế chiến thứ hai, Đức và Mỹ đã đồng ý với nhau có một cuộc hưu chiến trong đêm Giáng Sinh để binh sĩ cùng tham dự thánh lễ nửa đêm, hôm đó mọi người đã cùng nhau hát lên bài “Đêm Thánh Vô Cùng”.
*** 

Từ đầu thập niên 1900, Nhà thờ Thánh Nicholas đã không còn nữa do sự tàn phá của lũ lụt. Một ngôi nhà thờ mới đã được xây dựng bên cạnh một chiếc cầu. Một nhà nguyện nhỏ gọi là "Stille-Nacht-Gedachtniskapelle" (Nhà nguyện Tưởng nhớ Ca khúc Đêm Yên lặng), được dựng lên ngay tại địa điểm của ngôi nhà thờ đã bị phá hủy, và ngôi nhà kế cận được biến thành Nhà bảo tàng.

Nơi đây, quanh năm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đông nhất vẫn là trong tháng 12.

Hiện nay, trong Bảo Tàng Đêm Yên lặng và Nhà nguyện kỷ niệm tại Oberndorf, mọi người còn được thấy bản viết tay bài thơ “Đêm thánh”của Cha J. Mohr. Cả bản giai điệu viết tay của F. Gruber, giai điệu chịu ảnh hưởng của âm nhạc truyền thống tại các vùng nông thôn, phảng phất những nét đặc trưng của dân ca Áo.

Cả bài thơ và giai điệu của bài ca đều rất đơn sơ giản dị, nhưng lại gây xúc động vô cùng nên đã chinh phục được toàn thế giới. Điểm nổi bật hơn hết là so với âm điệu của các bài thánh ca Noel khác, bài “Đêm Thánh Vô Cùng” tiêu biểu cho đêm hạ sinh một hài nhi - Thiên Chúa, đến với trần gian và sống với con người. Chính nhờ thế, bài Thánh ca ấy đã giúp cho Đại lễ Giáng sinh thêm rất nhiều ý nghĩa. Thật khó hình dung, lễ Giáng sinh mà lại thiếu bài Thánh ca “Đêm thánh vô cùng”.

Nhưng ngày lễ không chỉ là dịp để cho ta kỷ niệm, nhớ tới hoặc nghĩ về, vì như thế sẽ chẳng sinh ích lợi bao nhiêu, vì lễ nào rồi cũng qua, như bao nhiêu Thánh lễ đã qua và từng được dự trong đời, nhưng phải là những nhắc nhở và đòi buộc ta phải sống với mầu nhiệm Giáng sinh, nghĩa là Chúa cũng phải được sinh ra, phải lớn lên ở ngay trong lòng mình. Nghĩa là, ta cũng phải đổi thay, phải tự điều chỉnh để nên giống Chúa hơn qua từng ngày. Nghĩa là, ta phải thực sự ý thức, để không thể tự hài lòng và an tâm với lối sống hời hợt, nặng phần trình diễn của các hình thức lòe loẹt ồn ào.

Lạy Chúa !
Xin luôn nâng đỡ và nhắc nhở, để con biết vâng theo ý Chúa, hơn là bắt Chúa phải chiều theo ý con, nhờ thế, con sẽ có được niềm vui và sự bình an mà Thiên thần đã ngợi ca chúc tụng  khi hài nhi Giêsu sinh ra năm nào :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Amen.

Xuân Thái

Dongcongnet sưu tầm 22-12-2009

còn tiếp..

CÓ CHỨ, VIRGINIA, CÓ ÔNG GIÀ NOEL
"Thưa Ngài Chủ Bút.  Em là  bé gái 8 tuổi.  Vài người bạn của em cho rằng không có ông già Noel.  Ba nói với em rằng "Nếu con đọc thấy điều đó trên tờ The Sun thì nó đúng như vậy."  Vậy làm ơn cho em biết sự thật CÓ ÔNG GIÀ NOEL HAY KHÔNG?"
Virginia O' Hanlon
           

Lá thư đã được gửi đi ngay trước Noel năm 1897.  Trả lời thư cho bé Virginia là một bài báo viết vội ngay vào lúc tờ báo chuẩn bị lên khuôn cho số Giáng Sinh dưới tựa đề  “CÓ CHỨ, VIRGINIA, CÓ ÔNG GIÀ NOEL"              
Bài báo viết:
           

"Virginia, những bạn bè nhỏ của em đã nói sai rồi.  Các bạn ấy đã bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hoài nghi của một năm hoài nghi.  Các bạn không tin trừ khi đã thấy.  Các bạn nghĩ rằng không gì có thể bởi đầu óc nhỏ bé của các bạn không thấu lĩnh được.  Tất cả mọi đầu óc, Virginia, dù là người lớn hay trẻ em đều nhỏ bé.  Trong vũ trụ rộng lớn này, trí óc con người chỉ là một côn trùng, một con kiến so với thế giới vô cùng bên ngoài nó, nhỏ bé như khả năng trí tuệ của con người trong nắm bắt toàn bộ sự thật và kiến thức.              

CÓ CHỨ, CÓ ÔNG GIÀ NOEL.  Ông hiện diện cũng chắc chắn như Tình Yêu, Sự Rộng Lượng và Lòng Thành Tâm đang tồn tại, và em biết rằng chúng đầy rẫy sẽ mang cho đời sống của em cái đẹp và niềm vui cao quý nhất.  Chao ôi, thế giới này sẽ ảm đạm biết bao nhiêu nếu không có ông già Noel.  Nó cũng buồn như nếu không có những bé như Virginia.  Lúc đó sẽ không có niềm tin trẻ thơ, thơ ca và sự lãng mạn làm cho sự tồn tại này có thể chịu đựng được .
           

Không ai thấy ông già Noel ra sao.  Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy không có ông già Noel cả.  Nhưng điều thật nhất trên thế giới này chính là những điều mà cả người lớn và trẻ em đều không thể thấy.  Có bao giờ em thấy những bà tiên nhảy múa trên thảm cỏ xanh chưa?  Dĩ nhiên chưa, nhưng đó không phải là bằng chứng rằng họ không có mặt nơi đó.  Không ai có thể nhận thức hoặc tưởng tượng ra được tất cả những điều kỳ diệu không thể thấy được trong thế giới này.

Em phá tung cái lúc lắc trẻ thơ để tìm cho ra cái gì làm nên tiếng động bên trong nó, nhưng có một tâm mạng che cái thế giới chúng ta không thấy được, mà không một người mạnh nhất hoặc thậm chí một sức mạnh liên kết của một nhóm người mạnh nhất từng sống, có thể đặt qua một bên bức màn đó để chiêm ngưỡng và vẽ nên cái đẹp và sự huy hoàng bên ngoài nó.  Liệu nó có thật hay không?  Ôi, Virginia, trong cả thế giới này không có gì khác thật sự và vĩnh cữu.  Không có ông già Noel.  Nhưng nhờ Trời, ông sống và sống mãi mãi.  Hàng nghìn năm tới nữa, không, Virginia, hàng chục lần của hàng chục nghìn năm sau nữa, ông vẫn sẽ tiếp tục là niềm vui của trái tim trẻ thơ "

Tác giả của lá thư tòa soạn trả lời bé Virginia chỉ được công bố tên thật sự sau khi ông mất.  Đó là cây bút bình luận của tờ The Sun, Francis Pharcellus Church, lúc ấy 57 tuổi, và theo Bảo Tàng Báo Chí ở Arlington, bang Virginia, bài viết này của ông là bài bình luận được in lại nhiều nhất trong lịch sứ báo chí Mỹ.  Nhà báo này qua đời năm 1906 còn Virginia O' Harlon Douglas cũng mất năm 1971 lúc bà 81 tuổi sau một cuộc đời cống hiến cho trẻ tật nguyền.  Hành trang cho sự nghiệp giáo dục giáo dục của bà Virginia là lá thư phúc đáp của Church mà bà cho biết đã mang theo suốt cuộc đời mình.

Hơn 100 năm đã trôi qua kể từ lá thư hoài nghi của cô bé Virginia nhưng lý lẽ của Church vẫn tiếp tục sống.  Bởi nó không chỉ là bài trả lời về việc có hay không có Ông Già Noel, mà trên tất cả nó là thông điệp của lòng tin vào những giá trị nhân loại cao quý.

Sưu tầm 12-12-2011

NHỮNG MÓN QUÀ CỦA BA ĐẠO SĨ

Trích Maranatha

Giáng sinh lại về.  Thời gian này, người ta nghĩ đến việc mua quà tặng nhau.  Quà Giáng Sinh đã trở thành một thứ không thể thiếu để bày tỏ  tình cảm của những người thương mến nhau, dù họ có đặt niềm tin vào Thiên Chúa Giáng Trần hay không.  Thế nhưng, người ta quên mất rằng những món quà đầu tiên ngày Giáng Sinh là của ba đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Giêsu.  Và kể từ đó, những đạo sĩ khác tiếp tục dâng lên Hài Nhi Giêsu những món quà nho nhỏ... Không phải dâng lên Hài Nhi nhập thể ở chuồng bò Bêlem, mà nhập thể lại từng ngày trong những con người quanh ta, đặc biệt là những người nghèo nàn, thiếu thốn, cô đơn.  Nếu ta tinh ý một tí, ta sẽ gặp lại nhiều đạo sĩ ấy.  Và sau đây là ba trong số bao nhiêu đạo sĩ của ngày nay đang dâng những món quà Giáng Sinh đầy ý nghĩa.  Độc giả sẽ thấy rằng trang phục của họ không giống các vị đạo sĩ xưa kia, nhưng tấm lòng của họ thì vẫn như thế.  Maranatha sưu tầm và chuyển ngữ để trao lại độc giả như món quà Giáng Sinh năm nay, với lòng mong ước rằng người đọc những mầu chuyện này sẽ tự biến mình thành đạo sĩ thứ tư.

 

NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ I

     Một buổi tối trong mùa Giáng Sinh, một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng trước một cửa hàng. Cậu bé không mang giày và quần áo thì tơi tả. Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, nhìn thấy em và đọc được ước mơ trong đôi mắt của em. Cô nắm tay em đưa vào cửa hàng. Cô mua cho em một đôi giày và một bộ đồ mới.

Khi ra lại ngoài đường, người phụ nữ nói với em: “Bây giờ cháu có thể về nhà và sống những ngày Lễ Giáng Sinh thật vui nhé!”

Em bé nhìn lên hỏi cô: “Cô ơi! Cô có phải là Chúa không?”

Người phụ nữ mỉm cười nói: “Không em à. Cô chỉ là một trong những người con của Chúa thôi!”

Cậu bé thốt lên: “Em biết ngay mà! Em biết là cô có họ hàng với Chúa mà!”        Dan Clark (Are you God?)

 

NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ II

Một cậu bé từng mong gặp được Chúa.  Cậu nghĩ rằng đường đến gặp Chúa hẳn là xa, nên cậu bỏ vào ba-lô nhiều hộp bánh, vài lon nước ngọt và bắt đầu lên đường.

Khi cậu đi được vài ô nhà, cậu thấy một bà lão.  Bà ngồi trên ghế đá công viên nhìn những con chim bồ câu đang vui đùa.  Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở ba-lô ra.  Cậu định lấy một lon nước ngọt để uống, nhưng khi thấy bà lão có vẻ đói, cậu tặng bà vài chiếc bánh.  Bà nhận lấy và mỉm cười với cậu.

Nụ cười bà thật tươi nên cậu muốn nhìn thấy một lần nữa, vì thế cậu tặng thêm bà lon nước ngọt.  Bà lại mỉm cười và cậu bé cảm thấy sung sướng.

Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi chiều mà chẳng nói với nhau một lời.

     Khi hoàng hôn xuống, cậu bé thấm mệt nên muốn về nhà.  Cậu đứng đậy bước đi vài bước, rồi bỗng quay mặt chạy lại cạnh bà lão, ôm hôn bà.  Bà mỉm cười với cậu với khuôn mặt rạng rỡ hơn bao giờ hết.

Về đến nhà, mẹ cậu ngạc nhiên vì thấy cậu thật vui.  Bà hỏi: “Cái gì hôm nay làm con vui như thế?” Cậu đáp: “Con đã ăn trưa với Chúa.”  Mẹ cậu chưa kịp phản ứng thì cậu đã nói thêm: “Mẹ biết không? Chúa có một nụ cười dễ thương nhất trên đời!”

Trong khi đó bà lão cũng về đến nhà, gương mặt rạng rỡ niềm vui. Con của bà ngạc nhiên nhìn gương mặt tươi rói của bà.  Cô hỏi: “Mẹ ơi, điều gì hôm nay làm mẹ vui như thế?” Bà đáp: “Mẹ đã ăn bánh với Chúa ngoài công viên!” Người con chưa kịp phản ứng gì thì bà nói tiếp: “Con biết không? Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ nhiều!”

Julie A. Manhan (An Afternoon in the Park)

 

NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ III

Thoạt nhìn, bà ta cũng giống như bất cứ một bà lão nào khác.  Bước đi chậm chạp trên tuyết, một mình, xơ xác, đầu cúi gục.  Những người qua lại trên hè phố đông người ngoảnh mặt đi, ít ra là bà cũng nhắc họ rằng đau khổ không hề tạm dừng trong mùa Giáng Sinh

Một đôi vợ chồng trẻ, cười cười nói nói, tay ôm đầy quà Giáng Sinh, không để ý đến bà lão kia.

Một người mẹ hối hả đưa hai đứa con về thăm bà ngoại.  Họ cũng không để ý đến bà.

Một mục sư chững chạc bước đi, tay phải cầm chặt quyển Kinh Thánh, như một chiến sĩ cầm vũ khí.  Nhưng đầu óc ông đang nghĩ đến những sự trên trời, nên ông cũng không màng lưu ý đến bà.

Nếu những người ấy lưu ý, hẳn họ thấy rằng bà lão không mang giày.  Bà đi chân không trên tuyết và nước đá.

Hai bàn tay bà nắm chặt vào cổ áo đứt nút để che cho khỏi gió.  Bà đừng lại và đứng lom khom ở trạm xe buýt.  Đầu bà quấn một chiếc khăn màu đỏ xanh.  Bà đứng chờ xe buýt để đi vào trung tâm thành phố.

Một người đàn ông lịch lãm, tay cầm chiếc cặp da, đứng cạnh bà, nhưng không quá gần.  Biết đâu bà chẳng mang một bệnh truyền nhiễm.

Một em thiếu nhi cũng chờ xe buýt.  Em nhìn đi nhìn lại chân của bà lão, nhưng không nói tiếng nào.

Xe buýt đến và bà lão chậm chạp, khó khăn bước lên.  Bà ngồi trên ghế ngang cạnh người lái xe.  Người đàn ông và cậu bé đi vội xuống phía dưới.  Người đàn ông ngồi cùng ghế với bà lắc lư khó chịu và xoay mấy ngón tay.  “Cái bà già!” ông nghĩ thế!

Người lái xe nhìn thấy chân không của bà, bèn nghĩ: “dân vùng này càng ngày càng nghèo thêm. Tôi ghét nhìn cảnh này, tôi sẽ thích hơn ngày nào họ cho tôi lái tuyến đường Đại Học.”

Một cậu bé chỉ vào bà lão. ”Mẹ ơi! Nhìn kìa, bà già kia đi chân không”

Người mẹ bối rồi nắm tay con kéo xuống: “Andrew!  Đừng chỉ tay về người khác.  Như vậy là không lịch sự.”  Rồi bà nhìn ra cửa sổ.

“Bà này hẳn có con lớn chứ!” một phụ nữ mặc áo lông cừu thốt lên.  “Con bà chắc phải xấu hổ vì bà!”  Phụ nữ này cảm thấy hãnh diện vì cô chăm sóc mẹ mình đàng hoàng.

Một cô giáo ngồi ở giữa xe siết chặt gói quà trên đùi mình.  Cô nói với người bạn ngồi bên cạnh: “Chẳng phải là mình đã trả đủ thuế để lo cho những trường hợp này sao?”

Cô bạn trả lời “Đấy là sai lầm quản trị của phe Cộng Hòa; họ ăn cắp của người nghèo để cung cấp cho người giàu”.  Một ông tóc muối tiêu can thiệp: “Không phải đâu!  Đấy là do phe Dân Chủ.  Các chương trình an sinh xã hội của phe Dân Chủ biến người ta thành kẻ lười biếng và cầm tù người ta trong cái nghèo!”

Một cậu sinh viên ăn mặc bảnh bao lên tiếng: “Người ta phải học cách tiết kiệm!  Nếu bà già này biết tiết kiệm từ hồi còn trẻ, thì bây giờ bà đâu khổ đến thế.  Lỗi là do bà ta thôi!”

Tất cả những người ấy cảm thấy tự hào vì mình đã phân tích tình huống thật sắc sảo.

Tuy nhiên, một thương gia có lòng cảm thấy xúc phạm vì sự thờ ơ của các người cùng xe với mình.  Ông mở ví rút ra một tờ 20 đô-la nhăn nheo.  Ông khẳng khái bước lên và đặt tờ giấy bạc trong bàn tay run run của bà lão.  “Bà ơi, tặng bà để mua giày nè.”

Bà lão gật đầu cám ơn.  Người thương gia lui về ghế ngồi, hài lòng vì thấy rằng mình là một người biết biến lòng trắc ẩn thành hành động.

Một nữ Kitô hữu nhìn thấy mọi sự.  Cô bắt cầu cầu nguyện thinh lặng.  “Lạy Chúa, con không có tiền.  Con không thể nào giúp được bà ấy.  Nhưng lạy Chúa, con có thể dâng lên Chúa những nhu cầu của con người.  Con biết Chúa đầy lòng yêu thương.  Chúa làm được những điều bất khả.  Xin Chúa hãy tỏ hiện vinh quang Người trên bà lão này.  Xin cho đôi giày rơi xuống từ trời như man-na xưa, để cho bà lão này có được đôi giày mừng Giáng Sinh.”  Và người phụ nữ cảm thấy mình biết sống đời cầu nguyện.

Đến trạm tiếp theo, một cậu thanh niên lên xe.  Cậu mặc một chiếc áo gió màu xanh, thắt một khăn choàng màu nâu quanh cổ, đầu đội chiếc mũ xám che phủ đôi tai.  Một sợi dây nghe nhạc chạy luồn dưới nón vào tai nối liền với một máy nghe walkman.  Cậu lắc lư thân mình theo điệu nhạc mà chỉ một mình cậu nghe.  Cậu trả tiền vé rồi buông người xuống đối diện với bà lão.

Nhìn thấy đôi chân không của bà, cậu ngưng lắc lư.  Cậu thẳng người bất động.  Cậu đưa mắt nhìn chân bà rồi nhìn chân mình.  Cậu mang một đôi giày hiệu, đắt giá, mới toanh.  Hẳn cậu đã phải đề dành khá lâu với đồng lương ít ỏi để mua đôi giày ấy.  Bạn bè trong nhóm chắc sẽ cho rắng cậu rất ‘bảnh’ khi mang đôi giày này.

Cậu cúi mình xuống, tháo dây giày.  Cậu cởi đôi giày mới, cởi đôi vớ đang mang rồi quỳ xuống dưới chân bà lão.  “Má ơi!  Con thấy má không có giày.  Còn con thì có đây!”  Dịu dàng, anh nhè nhẹ nâng đôi chân khẳng khiu của bà lão lên.  Anh mang vớ và giày của anh vào chân bà.  Bà lão gật đầu cám ơn.

Xe buýt dừng lại ở một trạm kế tiếp.  Cậu thanh niên xuống xe.  Hành khách trên xe chồm theo nhìn cậu ta bước đi chân không trên tuyết.

Một người hỏi: “Anh ta là ai vậy hả?”

Một người khác đáp: “Chắc là một ngôn sứ!”

Người khác lên tiếng: “Hẳn là một ông thánh”

Có người hô to lên: “Xem kìa! Có ánh hào quang trên đầu anh ta”

Người nữ Kitô hữu bảo: “Anh ta chắc là Con Chúa.”

Nhưng cậu bé từng chỉ tay vào bà lão lại nói: “Không phải đâu mẹ ơi! Con nhìn kỹ anh ấy rồi... Anh ấy chỉ là một người thôi!”                                                                
Earnest Thompson (Only A Man)
     

Câu truyện 1

Như thường lệ,mỗi mùa giáng sinh, tôi đều nhận được quà từ anh trai của tôi. Giáng sinh năm ấy tôi cảm thấy vui nhất không phải chỉ vì món quà anh tôi tặng-một chiếc xe hơi mà vì tôi đã học được một bài học rất thú vị vào cái đêm đông lạnh lẽo ấy...

Đã 7 giờ tối, mọi người trong công ty đã ra về gần hết, tôi cũng đang đi đến gara để lấy xe và về nhà ăn Giáng sinh.
Có một cậu bé, ăn mặc rách rưới, trông như một đứa trẻ lang thang, đang đi vòng quanh chiếc xe tôi, vẻ mặt cậu như rất thích thú chiếc xe. Rồi cậu chợt cất tiếng khi thấy tôi đến gần, "Đây là xe của cô ạ?". Tôi khẽ gật đầu, "Đó là quà Giáng sinh anh cô tặng cho." Cậu bé nhìn tôi tỏ vẻ sửng sốt khi tôi vừa dứt lời. "Ý cô là...anh trai cô tặng chiếc xe này mà cô không phải trả bất cứ cái gì?" "Ôi! Cháu ước gì...". Cậu bé vẫn ngập ngừng.

Tất nhiên tôi biết cậu bé muốn nói điều gì tiếp theo. Cậu muốn có được một người anh như vậy. Tôi chăm chú nhìn cậu bé, tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe lời nói của cậu. Thế nhưng cậu vẫn cúi gằm mặt xuống đất, bàn chân di di trên mặt đất một cách vô thức. "Cháu ước...", cậu bé tiếp tục "...cháu có thể trở thành một người anh trai giống như vậy". Tôi nhìn cậu bé, ngạc nhiên với lời nói vừa rồi. Bỗng nhiên tôi đề nghị cậu bé, "Cháu nghĩ sao nếu chúng ta đi một vòng quanh thành phố bằng chiếc xe này?". Như sợ tôi đổi ý, cậu bé nhanh nhảu trả lời: "Cháu thích lắm ạ!"

Sau chuyến đi, cậu bé hỏi tôi với ánh mắt sáng ngời đầy hy vọng, "Cô có thể lái xe đến trước nhà cháu không?". Tôi cười và gật đầu. Tôi nghĩ mình biết cậu bé muốn gì. Cậu muốn cho những người hàng xóm thấy cậu đã về nhà trên chiếc xe to như thế nào. Thế nhưng tôi đã lầm..."Cô chỉ cần dừng lại ở đây, và có phiền không nếu cháu xin cô đợi cháu một lát thôi ạ..."

Nói rồi cậu bé chạy nhanh vào con hẻm sâu hun hút, tối om, tưởng chừng như chẳng có ai có thể sống trong ấy. Ít phút sau tôi nghe thấy cậu bé quay lại qua tiếng bước chân, nhưng hình như lần này cậu không chạy như lúc nãy mà đi rất chậm. Và đi theo cậu là một cô bé nhỏ nhắn, mà tôi nghĩ đó là em cậu, cô bé với đôi bàn chân bị tật. Cậu bé đẩy chiếc xe lăn em cậu đang ngồi, một chiếc xe cũ kĩ, xuống những bậc tam cấp một cách rất cẩn thận, và dừng lại cạnh chiếc xe của tôi.

"Cô ấy đây, người mà lúc nãy anh đã nói với em đấy. Anh trai cô ấy đã tặng một chiếc xe hơi cho cô nhân dịp Giáng sinh mà cô chẳng phải tốn lấy một đồng. Và một ngày nào đấy anh cũng sẽ tặng em một món quà giống như vậy. Hãy nghĩ xem, em có thể tận mắt thấy những món quà, những cảnh vật ngoài đường phố trong đêm Giáng sinh, và anh sẽ không phải cố gắng miêu tả nó cho em nghe nữa!".

Tôi không thể cầm được nước mắt, và tôi đã bước ra khỏi xe, đặt cô bé đáng thương ấy lên xe. Ánh mắt cô bé nhìn tôi đầy vẻ cảm phục và thân thiện.

Ba chúng tôi lại bắt đầu một chuyến đi vòng quanh thành phố, một chuyến đi thật ý nghĩa và tôi sẽ không bao giờ quên, khi những bông tuyết lạnh giá của đêm Giáng sinh bắt đầu rơi.

Và cũng trong đêm Giáng sinh ấy, tôi đã hiểu được sâu sắc ý nghĩa một câu nói của chúa Giê-su: "Không gì tốt đẹp hơn việc làm cho người khác hạnh phúc."


Câu truyện 2

Chỉ còn 4 ngày nữa là đến Giáng Sinh. Không khí của ngày lễ chưa làm tôi nôn nao, cho dù bãi đậu xe của cửa hàng giảm giá trong khu nhà chúng tôi đã chật ních đầy xe. Bên trong cửa hàng lại còn tệ hơn. Các lối đi đầy ứ những xe đẩy hàng và người mua sắm vào giờ chót.

Tại sao tôi lại đến đây hôm nay? Tôi tự hỏi. Đôi chân tôi rã rời, đầu tôi đau buốt. Tôi đã có 1 danh sách một số người quả quyết rằng họ không cần quà cáp, nhưng tôi biết họ sẽ rất buồn nếu như tôi chẳng tặng quà gì cho họ!

Mua quà cho người mà cái gì họ cũng có để rồi lại hối tiếc vì đã tốn kém nhiều cho quà cáp, theo tôi mua quà chẳng có tí gì là thích thú cả!

Tôi vội vã cho những món hàng cuối cùng vào xe đẩy, rồi tiến tới những dòng người xếp hàng dài đăng đẳng. Tôi chọn hàng ngắn nhất nhưng có lẽ cũng phải chờ đến 20 phút.

Đứng trước tôi là 2 đứa trẻ - 1 cậu bé khoảng 5 tuổi và 1 cô bé nhỏ hơn. Đứa bé trai mặc một chiếc áo rách. Đôi giày tennis rách tả tơi, lớn quá khổ và dư thừa ra phía trước chiếc quần Jean ngắn cũn cỡn của nó. Nó nắm chặt mấy tờ đô-la rách nát trong đôi bàn tay cáu bẩn của mình. Quần áo của đứa bé gái cũng giống y anh nó vậy.

Cô bé có một mái tóc xỉn màu với những lọn tóc xoăn. Trên khuôn mặt nhỏ nhắn của cô bé hiện rõ rằng cô bé đang mong chờ đến bữa ăn chiều. Trong tay cô là một đôi dép màu vàng bóng thật đẹp. Trong lúc tiếng nhạc Giáng Sinh vang lên từ hệ thống stereo của cửa hàng, cô khe khẽ ngân nga theo, dù lạc điệu nhưng rất hạnh phúc.

Cuối cùng cũng đã tới phiên chúng tôi, cô bé cẩn thận đặt đôi giày lên quầy. Cô có vẻ quý đôi giày như vàng vậy.

Người thu ngân in hoá đơn và nói: “Của cháu là 6,09 đô”. Câu bé đặt những đồng tiền rách nát của mình trên mặt quầy và lục tìm khắp túi.

Cuối cùng cậu tìm được tất cả là $5.12. “Cháu nghĩ chúng cháu phải trả đôi giày lại” - cậu lấy hết can đảm nói. “Lúc khác cháu sẽ quay lại, có lẽ là ngày mai”.

Nghe anh nói thế, cô bé bắt đầu nức nở:

“Nhưng Chúa Jesus sẽ rất yêu thích đôi giày này cơ mà” - cô bé khóc.

“Thôi được, chúng ta về nhà và sẽ kiếm thêm, em à, đừng khóc nữa, rồi chúng ta sẽ quay trở lại mà” - Cậu bé năn nỉ em.

Tôi nhanh chóng đưa cho người thu ngân 3 đô. Hai đứa trẻ đã xếp hàng chờ đợi quá lâu, và dù sao cũng đang là mùa Giáng Sinh.

Bỗng niên một đôi vòng tay ôm lấy tôi và giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: “Cháu cảm ơn cô, cô nhé”.
“Ý của cháu là gì khi nói rằng ”Chúa Jesus sẽ thích đôi giày này? “- Tôi hỏi.

Cậu bé đáp: “Mẹ cháu bệnh và sẽ lên Thiên Đàng. Bố bảo mẹ sẽ về với Chúa trước Giáng Sinh”.

Cô bé nói thêm: “Giáo viên của cháu nói rằng đường phố trên Thiên Đàng vàng bóng, như chính đôi giày này đây. Mẹ cháu sẽ rất đẹp khi mang đôi giày này đi trên con đường ấy phải không cô?”

Nước mắt tôi tuôn trào khi nhìn thấy những giọt lệ lăn trên khuôn mặt cô bé.
Tôi đáp: “Đúng, cô tin chắc là mẹ cháu sẽ rất đẹp”.

Tôi lặng lẽ cám ơn Thượng Đế đã dùng những đứa trẻ này để nhắc nhở tôi về ý nghĩa đáng trân trọng của việc tặng quà.


Câu truyện 3

Tôi rảo nhanh chân đến cửa hàng địa phương để mua vài món quà giáng sinh vào phút chót lễ Giáng Sinh. Trên đường đi tôi ngắm nhìn mọi người rồi tự nhủ, đáng nhẽ mình phải đi mua quà từ trước nhưng do bận nhiều việc quá. Lễ Giáng Sinh cũng là lúc để tôi có thể thong thả được một lúc. Có lúc tôi đã ước rằng mình sẽ ngủ một giấc dài qua cả mùa Giáng Sinh. Nhưng bây giờ là lúc tôi phải nhanh chóng đến cửa hàng đồ chơi.

Ðang tìm những thứ cần mua, tôi thấy một cậu bé khoảng 5 tuổi đang ôm một con búp bê rất dễ thương. Cậu bé ôm con búp bé rất âu yếm và đang vuốt ve tóc của nó. Tôi cảm thấy rất tò mò nên chăm chú quan sát cậu bé và tự hỏi không biết cậu bé đó định tặng con búp bê đó cho ai. Tôi nhìn thấy cậu bé quay sang nói với người cô đi bên cạnh “Cô có chắc là cô không đủ mua con búp bê này không?”. Người cô trả lời đứa cháu một cách không hài lòng “Cháu phải biết rằng cô không có đủ tiền để mua nó!” Người cô dặn đứa bé không được đi lung tung trong khi bà đi mua trêm vài thứ khác, và bà sẽ quay lại sau vài phút nữa. Rồi thì bà ta bỏ đi để lại thằng bé vẫn đang mải mân mê con búp bê.

Tôi tiến lại gần để hỏi xem thằng bé định mua con búp bê đó cho ai. Thằng bé trả lời “Cháu mua con búp bê này cho em gái của cháu, vì nó rất thích được tặng một con búp bê nhân dịp giáng sinh và nó đoán rằng ông già Noel sẽ tặng nó một con”. Tôi bèn bảo thằng bé rằng có thể ông già Noel sẽ mang đến không biết chừng. Thằng bé đáp lại ngay “Ông già Noel không biết chỗ em cháu đang ở. Cháu sẽ đưa con búp bê này cho mẹ cháu để mẹ cháu chuyển cho em cháu”. Nghe như vậy tôi liền hỏi thằng bé xem em nó hiện giờ đang ở đâu.

Thằng bé ngước nhìn tôi với ánh mắt buồn rầu rồi nói “Nó đã đi theo với đức Chúa rồi”.

Bố của cháu bảo là mẹ của cháu cũng đang chuẩn bị đi cùng với em cháu rồi. Nghe những lời thằng bé nói tôi cảm thấy tim tôi như có ai vừa bóp nhẹ. Nói xong thằng bé ngước nhìn tôi rồi nói “Cháu đã bảo với bố cháu khuyên mẹ cháu đừng đi theo em cháu vội. Cháu bảo ông nhắn với mẹ cháu rằng hãy đợi cháu đi cửa hàng về đã”. Sau đó thằng bé hỏi tôi có muốn xem bức tranh của nó vẽ không. Tôi bảo rằng tôi rất thích. Thằng bé liền rút vài bức tranh nó để ở quầy hàng đưa cho tôi rồi nó nói “Cháu muốn mẹ cháu mang theo những bức tranh này theo để mẹ cháu không quên cháu, cháu rất yêu mẹ cháu nên cháu không muốn mẹ đi đâu. Nhưng bố cháu bảo mẹ cháu phải đi cùng với em cháu”.

Tôi chăm chú nhìn thằng bé và cảm thấy dường như trong hình hài nhỏ bé kia thằng bé lớn lên rất nhiều. Trong khi thằng bé không chú ý, tôi vội lục tìm trong ví của mình để lấy ra một nắm tiền rồi tôi bảo thằng bé “Cháu có đồng ý là chúng ta sẽ cùng đếm số tiền này không?” Thằng bé vô cùng phấn khởi nó nói “Ðược ạ cháu hi vọng là đủ”, rồi tôi đưa cho thằng bé một ít để hai người cùng đếm. Trong khi đếm tiền thằng bé khẽ nói “Tất nhiên ở cửa hàng này có rất nhiều búp bê, cảm ơn Chúa đã mang cho con số tiền này”, sau đó thằng bé nói với tôi rằng “Cháu vừa mới ước được đức Chúa ban cho cháu số tiền này, cháu sẽ mua con búp bê này để mẹ cháu mang nó cho em gái cháu. Và Ngài đã nghe thấy lời nguyện ước của cháu. Cháu cũng muốn ước rằng Ngài ban cho cháu đủ tiền để cháu mua cho mẹ cháu một bông hồng trắng vì mẹ cháu rất thích hoa hồng trắng nhưng cháu chưa kịp hỏi Ngài thì Ngài đã ban cho cháu số tiền đủ để mua cả búp bê và hoa hồng nữa”

Ðúng lúc đó thì cô của thằng bé quay trở lại nên tôi đẩy xe hàng của mình đi. Lúc này đây tôi có tâm trạng khác hẳn với lúc mới vào cửa hàng và tôi không khỏi nghĩ miên man về câu chuyện thằng bé kể cho tôi. Bây giờ tôi mới nhớ ra mình có đọc thấy trên báo nhiều ngày trước đây có một tai nạn do một tài xế say rượu đã đâm vào một ô tô làm chết tại chỗ một bé gái còn mẹ của bé thì bị thương rất nghiêm trọng. Lúc đó tôi nghĩ rằng tai nạn đó không phải là trường hợp của cậu bé đã kể.

Hai ngày sau tôi đọc trên báo thấy đăng tin người phụ nữ xấu số đó đã qua đời. Tôi vẫn không tài nào quên được cậu bé và tự hỏi không biết hai câu chuyện này có liên quan gì đến nhau không. Ngày hôm sau có chuyện gì cứ thôi thúc tôi khiến tôi bước ra ngoài và mua một bó hoa hồng trắng rồi đem đến nơi cử hành tang lễ cho người phụ nữ trẻ. Ở đó tôi thấy người phụ nữ nằm trong quan tài trên tay ôm một bó hoa hồng trắng rất đẹp bên cạnh đó là một con búp bê và những bức tranh của cậu bé mà tôi đã gặp ở cừa hàng đồ chơi hôm nào.

Tôi đứng đó nước mắt tuôn trào, cũng từ đó tôi cảm thấy yêu quí người thân của mình hơn và biết trân trọng những tình cảm linh thiêng đó. Tình yêu của cậu bé dành cho em gái và mẹ của mình thật là quá lớn lao. Nhưng chỉ cần có một tích tắc vô trách nhiệm của gã lái xe say rượu kia đà tàn phá hoàn toàn cuộc đời của cậu bé tội nghiệp. Ai đó đã từng nói rằng: “Chúng ta sống được nhờ những cái gì chúng ta có, nhưng chính chúng ta tạo ra ý nghĩa cuộc sống của mình bằng những gì chúng ta chia sẻ với người khác”

Noen 2012 .

Mùa Noel về xin gửi vài mẩu chuyện vui mùa Noel. Chúc mọi người tâm hồn luôn bình an vui tươi đón mừng lễ.
+ Diệu kế đêm Noel
Một người đàn ông gọi điện thoại cho con trai trước lễ Giáng sinh:
Cha không muốn phá hỏng ngày vui của con, nhưng cha và mẹ con sắp ly dị. 45 năm khổ sở thế là đủ.
Người con hét toáng lên:
- Cha đang nói gì thế?
- Chúng ta không thể chịu đựng nhau lâu hơn. Con thông báo với em gái con về điều này nhé.
Một lúc sau, anh trai hét lên với em gái trong điện thoại:
- Em biết chuyện gì chưa? Bố mẹ đang chuẩn bị ly dị đấy!
- Em sẽ làm rõ chuyện này.
Cô gái gọi ngay cho bố:
- Bố không được làm chuyện đó. Bố mẹ ngưng ngay chuyện đó. Con và anh sẽ về nhà ngay.
Nói xong, cô gái cúp máy ngay.
Người cha quay về phía vợ và nói:
- Phải hù như vậy chúng nó mới chịu về. Bà yên tâm các con của chúng ta đang trở về nhà đón Noel với mình.
+ Chuông cửa reo giữa đêm Giáng Sinh tại 1 ngôi nhà trong khu Harlem (NewYork). Ông già Noel xuất hiện và bảo với chủ nhân:
- Hãy nói 3 điều ước, ta sẽ đáp ứng ngay.
- 1 cỗ Roll-Royce đời 2008, 1 căn biệt thự có vườn giữa Hollywood và 1 triệu USD trong tài khoản ngân hàng.
- O.K! Nhưng xin hỏi lại một câu: Ngươi được bao nhiêu tuổi rồi?
- Mới…42, thưa ông! - Chủ nhân hồ hởi đáp.
- Ngần ấy tuổi mà còn tin ông già Noel là có thật ư?...
+ Một tên trộm đội lốt ông già Noel đột nhập vào ngôi biệt thự ngay trung tâm Thành phố giữa đêm khuya. Chú bé con chủ nhà dậy đi tiểu bắt gặp kẻ tội phạm cùng bao đồ trên vai.
- A… Ông già Noel… ông già Noel! Rõ ràng là ông có tồn tại kia mà!
- À, ừ… Đúng thế! Nhưng lo mà giữ mồm giữ miệng, bởi ta cực ghét nhân chứng sống…
+ Trong lớp giáo lý, sơ đang kể câu chuyện Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, miền Giuđê.
Bỗng sơ thấy một bé gái cứ đùa giỡn không chú ý. Sơ chỉ em và hỏi:
- Em cho sơ biết Chúa Giêsu người miền gì?
Bé gái trả lời tỉnh bơ:
- Thưa sơ, Chúa Giêsu người miền núi ạ.
Sơ giận lắm:
- Căn cứ vào đâu em lại dám nói như thế?
Bé gái:
- Thưa sơ, Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá, chỉ có miền núi mới có hang đá ạ.
Sơ: ???!!!

noen 2015


-dongcong.net sưu tầm 2009-15

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)