dongcong.net
 
   
 
 
 
 

 

 
Phụng Vụ Chư Thánh
 
 
Ngày 29 tháng 6
 
<<<    

Thánh Phêrô Và Phaolô Tông Ðồ

Cả hai thánh đều chịu tử đạo tại Rôma. Thánh Phêrô năm 64 và Phaolô năm 67. Giáo Hội Rôma đã chọn ngày 29/6 để kính trọng thể hai đấng. Tuy nhiên, ngày hôm nay phải là ngày lễ của toàn thể Giáo Hội đã được nảy sinh do dòng máu oai hùng của các ngài. Một ngày vui mừng và hân hoan, vì cả hai thánh với những ơn huệ nhận lãnh, đã ra sức quy tụ thành một gia đình Chúa Giêsu, và giờ đây cả hai cùng kết hợp trong vinh quang và đáng được ca ngợi. Ngày hôm nay chúng ta tôn kính hai khuôn mặt tiêu biểu cho Giáo Hội sơ khai, mặc dù khác biệt nhưng bổ túc lẫn cho nhau. Thánh Phêrô và Phaolô đã hăng hái rao giảng Phúc Âm, nhờ đó chúng ta đón nhận được lời loan truyền đầu tiên của đức tin. Vì thế ngày hôm nay chúng ta cũng mừng kính mầu nhiệm Giáo Hội đặt nền tảng trên các ngài. Nhờ lời bầu cử của các ngài, chúng ta hãy cầu xin để trung thành với lời giáo huấn của các ngài, sống một đời bác ái như những Kitô hữu đầu tiên và bén rễ sâu trong tình thương dạt dào.

Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt
Vietnamese Missionaries in Asia

LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
Lm Đan Vinh
HIỆP SỐNG TIN MỪNG

Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
NOI GƯƠNG HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG:
(c 13) Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai?” (c 14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. (c 15) Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c 16) Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (c 17) Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (c 18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (c 19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.

 2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ.

Sau khi Simon đại diện cho Nhóm Mười Hai khẳng định Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (c 15-16), ông đã được khen là có phúc (c 17), được đổi tên thành Phêrô và được hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng, tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá (c 18). Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi (c 19).

 3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:

HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống”, phải chăng Tông đồ Simon có ý nói về bản tính Thiên Chúa của Người?

ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng Kitô, theo lời ngôn sứ Nathan tuyên sấm về người con sẽ nối nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha. Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm nơi vua Salômon. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đavít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào Giêrusalem, Đức Giêsu cũng được dân chúng ca tụng bằng tước hiệu “Con Vua Đavít” này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng tước hiệu “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phêrô chưa hiểu ý nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giêsu đã cho biết ý nghĩa tước hiệu này nói về bản tính Thiên Chúa, khi khen ông có phúc vì đã được Chúa Cha thương mặc khải sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại sao Đức Giêsu đổi tên Simon thành Phêrô? Việc đổi tên chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18)?

ĐÁP:
Có thể Đức Giêsu đã đặt tên Phêrô cho Simon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin của Simon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau khi đổi tên, Đức Giêsu đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông trong Hội Thánh: Đức tin của Phêrô vào Đức Giêsu chính là tảng đá vững chắc mà trên đó Chúa xây dựng Hội Thánh. Ngoài ra Đức Giêsu còn trao tối thượng quyền để cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Ngưới cũng cho Phêrô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Chúa còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông (x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một số người cho rằng: Simon Phêrô là một người đầy khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm buộc và tháo cởi được?

ĐÁP:
Từ ngày được Đức Giêsu gọi đi theo làm môn đệ, Simon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23); Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31); Bị Thầy đe không cho dự phần với Thầy, vì đã từ chối được rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất la quá tự tin nên đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc 14,30.66-72).

Nhưng Simon Phêrô cũng có những ưu điểm xứng đáng được Đức Giêsu tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xêdarê Philípphê, ông đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được đổi tên thành Phêrô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện cho để luôn kiên vững đức tin, và trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em (x. Lc 22,32). Phêrô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm 12 tuyên xưng đức tin vào lời Chúa dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông đã được Đức Giêsu đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn đệ thân tín nhất được chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1), phép lạ bé gái đã chết được sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là chứng kiến Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm tội, nhưng Phêrô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh em, nên ông đã được Người tha thứ và còn trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giêsu đã thúc bách Phêrô chạy thi với Gioan ra mồ và đã sớm tin Thầy sống lại (x. Ga 20,1-9). Phêrô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giêrusalem năm 49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm trở lại thành Rôma để bị bắt và chịu khổ hình thập giá thời hoàng đế Nêrô (năm 64-67). Cái chết của Phêrô chứng tỏ lòng mến Chúa, và nêu gương đức tin vững chắc như đá tảng, để các tín hữu chúng ta noi theo.

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).

 2. CÂU CHUYỆN: PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊSU?

Ngày xưa, một vị vua nước Hy Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng hoặc làm tranh tượng chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ ban thưởng lớn cho những tác phẩm nào giống ngài nhất. Nghe thông báo, các nghệ nhân từ khắp các nước đã ùn ùn đến Hy Lạp để xin ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối cẩm thập rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành giải thưởng. Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi được ban tổ chức bố trí ở và làm việc tại một phòng trong khu vực hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung của nhà vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua truyền đem các tác phẩm đến trưng bày tại một đại sảnh lớn trong hoàng cung để nhà vua và bá quan trong triều đến chấm điểm. Khi thấy những tác phẩm dự thi họa lại chân dung của mình do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Nhà vua hết sức hài lòng. Theo ngài thì mỗi bức tượng, tranh tượng phù điêu đều có những đường nét tinh vi sắc sảo, nhìn thấy giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày tác phẩm của các nghệ nhân Hy Lạp thì ngài lấy làm ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh tượng nào, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng, được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi xem tác phẩm đâu, thì một người đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của mình, nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống động và trung thực như hình ảnh được phản chiếu từ chính con người thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ thuật Hy Lạp hạng nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân chúng được tự do chiêm ngưỡng.

 3. THẢO LUẬN: Đối với bạn, Đức Giêsu là ai? Người là một vị ngôn sứ, nên ta có thể xin Người cầu bầu cùng Chúa cho ta; hay là một thần tượng để ta thán phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin và sẵn sàng bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là những đau khổ phải chịu để kết hiệp với Người cứu rỗi tha nhân?

4. SUY NIỆM:

1. SO SÁNH GIỮA HAI TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ:
a) Về sự giống nhau:

- Về đức khiêm nhường và thành tâm sám hối: Cả hai vị đều là những người yếu đuối và tội lỗi nhưng đã biết khiêm nhường và hoán cải. Tông đồ Phêrô đã chối Thầy ba lần, nhưng đã hết lòng ăn năn và trung thành với Thầy đến chết. Tông đồ Phaolô đã quyết tâm tiêu diệt Hội Thánh ngay từ khi còn phôi thai, nhưng khi đã trở lại, đã hiến dâng cả đời để loan báo Tin Mừng, làm cho Hội Thánh được lan rộng đi khắp thế giới, bất chấp đói khát, hiểm nguy, tù đầy, kể cả cái chết.

- Về đức tin vào Chúa Giêsu là Đức Kitô và là Con Thiên Chúa: Trong khi những người Do Thái đồng thời đang mong chờ một Đấng Messia thế tục, đến để giải phóng họ khỏi ách nô lệ cho ngoại bang, còn hai vị Tông đồ đã nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Kitô của Thiên Chúa sai đến. Tông đồ Phêrô là người đầu tiên đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16 ). Còn Tông đồ Phaolô luôn gọi Thầy Giêsu là “Chúa” hay là “Đức Kitô”, hay là “Con Thiên Chúa” (x. 1 Ts 1,10; Rm 5,10; 8,3; 2 Cr 1,19).

- Về lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh: Sau khi đã trở lại, hai vị đã hoàn toàn quên mình và hiến trọn đời cho Chúa. Cả cuộc đời còn lại của Tông đồ Phaolô được tóm tắt như sau: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, nhưng là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ngài khuyên chúng ta: “dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Còn Tông đồ Phêrô thì nhắc nhở chúng ta: “Hãy tôn thờ Ðức Kitô là Chúa trong lòng anh em, và luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ người nào hỏi anh em về lý do của niềm hy vọng nơi anh em” (1 Pr 3,15), và “vì chính Ðức Kitô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng hãy tự trang bị bằng cùng một tâm tưởng ấy, vì ai chịu đau khổ về thể xác thì ngừng phạm tội, để thời gian còn lại trong thân xác, người ấy không còn sống theo những tình dục con người, nhưng theo thánh ý của Thiên Chúa” (1 Pr 4,1-2). Cả hai vị đã nêu gương hy sinh mạng sống cho Chúa và cho Hội Thánh.

b) Khác nhau về ơn gọi và sứ vụ:

- Tông đồ Phêrô: được gọi ngay từ khi Đức Giêsu mới ra giảng đạo, đang khi tông đồ Phaolô được gọi sau khi Chúa đã về trời. Tông đồ Phêrô là một trong những người được gọi trước hết và được Đức Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh (x. Mt 6,19) và nâng đỡ các anh em khác (x. Lc 22,32 ).

- Tông đồ Phaolô: được Chúa gọi sau cùng sau khi Người đã tử nạn và phục sinh và Phaolô được trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.

Việc Chúa chọn hai vị tông đồ Phêrô và Phaolô cho thấy Thiên Chúa thật mầu nhiệm và quyền năng vô biên trong việc biến đổi những người tầm thường hoặc cứng đầu nhất trở thành những tông đồ nhiệt thành của Người nếu họ thành tâm đón nhận ân sủng của Người.

2. BÀI HỌC TỪ HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ:

a) Học tập gương nhân đức của các ngài:  Thánh Phaolô đã dạy các tín hữu noi gương bắt chước ngài như ngài đã bắt chước Đức Kitô (x.1 Cr 4,16; 11,1). Còn thánh Phêrô thì khuyên các mục tử: “Ðừng thi thố quyền hành, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,3). 

- Gương khiêm nhường: Khi chịu kết án tử hình, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh ngược vì thấy mình không xứng đáng chịu đóng đinh giống như Thầy là Đức Giêsu. Còn thánh Phaolô thì công khai nhận mình là “một tên phạm thượng, khủng bố và ngạo mạn.” Ngài cũng khiêm tốn coi mình chỉ là “một đứa bé sinh non, là người bé nhỏ nhất trong số các Tông đồ, không đáng được gọi là Tông đồ” (x. 1 Cr 15,8-9). Thánh Phêrô khuyên các tín hữu chúng ta: “Tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường trong cách đối xử với nhau, vì ‘Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.’” (1 Pr 5,5). Thánh Phaolô thì nói: “Nếu tôi phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe về những gì liên quan đến sự yếu đuối của tôi” (2 Cr 11,30).

- Gương nhẫn nhịn chịu đựng nhau và xây dựng tình hiệp thông huynh đệ: Tuy có nhiều kiến thức hơn Phêrô, nhưng thánh Phaolô đã đến ở với Phêrô 15 ngày để học cùng Phêrô những gì Phêrô đã học từ Đức Kitô (x. Gal 1,18). Ngài khuyên chúng ta: “Ðừng làm gì vì ganh tị hay hư danh, nhưng trong tinh thần khiêm nhường, mỗi người hãy coi người khác là hơn mình” (Phil 2,3). Còn thánh Phêrô khi bị Phaolô chỉ trích công khai, đã giữ thái độ bình thản không tranh cãi (x. Gal 2,11-14). Dù có những bất đồng ý kiến, nhưng các ngài luôn thể hiện sự hiệp thông: Thánh Phêrô đã cùng với Giacôbê và Gioan bắt tay Phaolô (x. Galat 2,9-10). Còn thánh Phaolô thì tổ chức quyên góp tiền gửi về giúp giáo đoàn Giêrusalem. 

- Gương can đảm làm chứng cho Đức Kitô: Thánh Phêrô đã đứng trước Công Nghị Do thái tuyên bố: “Chúng tôi không thể không nói ra những gì chúng tôi đã nghe, và đã thấy.” (Cv 4,19-20). Còn thánh Phaolô thì nêu gương “chịu đựng trong gian khổ, cùng quẫn, lo âu, đòn đánh, tù ngục, lao nhọc, đói khát” (x. 2 Cr 6,4-5), để giữ vững đức tin (x. 2 Tm 4,7).

b) Sống và loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay?:

- Tội lỗi của thế giới hôm nay: Cũng như thời các Tông đồ, con người ngày nay đang tôn thờ ngẫu tượng là tiền tài, danh vọng và những thú vui xác thịt. Họ đang “theo những dục vọng của lòng họ, theo những điều ô uế, để họ cùng nhau làm nhục thân thể của họ. Họ đã đổi chân lý của Thiên Chúa để lấy sự giả trá. Họ đã tôn kính và thờ phượng những loài thụ tạo, thay vì Ðấng Tạo Hoá” (Rm 1,24-25). Họ cũng “theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông” (Rom 1,26-27). Họ đang tìm cách đạp đổ gia đình là nền tảng của xã hội bằng cách gán cho nó một định nghĩa mới. Họ đang nhân danh “quyền chọn lựa của phụ nữ” để phá thai, giết hại hàng triêu thai nhi mỗi năm. Không những thế họ còn muốn dạy những điều này cho trẻ em, và thay đổi luật pháp để biến những điều này thành những quyền căn bản, hầu bịt miệng những ai muốn vạch rõ chân lý.

- Loan báo Tin Mừng là can đảm chống lại nền văn hóa sự chết: Là Kitô hữu chúng ta có nhiệm vụ đoàn kết với nhau và đoàn kết với các tổ chức tốt khác chống lại “nền văn hoá sự chết này” dù phải chịu mọi thiệt thòi hay phải chết như các Tông đồ khi xưa.

5. NGUYỆN CẦU: 

- LẠY CHÚA GIÊSU. Chúng con cũng muốn được góp phần xây dựng Hội Thánh. Nhưng muốn làm được như vậy, chúng con phải có đức tin mạnh mẽ như hai thánh Phêrô và Phaolô. Xin Chúa cho chúng con trở thành những viên đá đức tin sống động vững chắc, làm thành nền móng xây nên tòa nhà Hội Thánh như thánh Phêrô. Xin Chúa hãy giúp chúng con tránh những lời nói khó ưa, những hành động vụ lợi ích kỷ, để sống bác ái hiệp thông với nhau như thánh Phaolô. Xin giúp chúng con loại bỏ những đam mê bất chính và các thói hư tật xấu, loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm chọc chỉ trích kẻ khác, những tư tưởng tự mãn và hẹp hòi... Nhờ đó, chúng con có thể trở thành chứng nhân hữu hiệu của Chúa giữa xã hội Việt Nam hôm nay.

- LẠY CHÚA. Tòa nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn còn đang được xây dựng dang dở. Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu chúng con tích cực góp phần xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh sớm được hoàn thành. Xin cho chùng con luôn sống yêu thương hòa thuận để gia đình và Giáo Xứ chúng con trở thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết tin thờ Chúa và sau này cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM

29-6-2016

ÔNG RUỘT NGỰA 

Tầng lớp bình dân Việt Nam hay dùng tiếng “ông ruột ngựa” (hoặc “ruột để ngoài da”) để chỉ những người tính tình ngay thẳng bộc trực, trong lòng suy tính gì nghĩ ngợi gì thường nói thẳng ra, không úp mở. Có lẽ thấy ruột ngựa thường thẳng tuột, không quanh co uốn khúc, so sánh với người trực tính cũng vậy, không có vụ “nói một đàng làm một nẻo”, lươn lẹo dối gạt. Khi gọi ai đó là “ông ruột ngựa” là có ý đề cao bản tính thật thà ngay thẳng của người ấy, hoàn toàn không phải là kiểu phê bình “chê” nhiều hơn “khen”. Có thể khẳng định “ruột ngựa” là một đức tính của con người. Vì thế, đối với bạn bè, kể cả trong những giờ chia sẻ Lời Chúa trong Huynh đoàn, Giáo xứ, để cho không khí bớt trầm lặng, tăng thêm phần sinh động, tôi thường hay gọi Thánh Phê-rô là “Ông ruột ngựa”. 

Xin đơn cử những minh hoạ về “ông ruột ngựa” Phê-rô: Xuất thân từ một làng quê ven biển mộc mạc, làm nghề chài lưới chất phác, và tính tình thật thà, ngay thẳng, nên chỉ mới gặp Đức Giê-su lần đầu, được chứng kiến phép lạ lưới cá, thì ngay lập tức Phê-rô đã "sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" (Lc 5, 8). Và sau khi nghe Đức Giê-su nói: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá", Phê-rô đã cùng với người anh là An-rê, và hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an bỏ chài lưới mà đi theo Người. Khi thấy Thầy đi trên mặt biển thì hoảng hốt cho là ma, rồi còn đòi "nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Phê-rô đã đi được trên mặt nước ngon lành, nhưng chỉ vì đức tin chưa vững nên khi thấy gió thổi, thì sợ hãi và bị chìm xuống, phải la cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Đức Giê-su đã cứu và âu yếm trách: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Cuối cùng thì mọi người đều xưng tụng: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!" (Mt 14, 26-32). 

Khi nghe Thầy hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" thì cũng chỉ mình Phê-rô tuyên xưng: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống". Và vì thế, vì biết quá rõ tâm tính của Phê-rô, nên Đức Giê-su rất thương mến và nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16, 15-18). Khi Thầy hiển dung trên núi Ta-bo, thì cũng chỉ có Phê-rô nói lên tâm tình: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." và do đó, các Tông đồ được Thiên Chúa Cha mạc khải về Đức Giê-su: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt 17, 4-5). 

Đến lúc thấy Thầy cho biết "Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại." Thì vì thương Thầy sẽ phải chịu khổ nạn và cũng vì bản tính ngay thẳng, "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Suy nghĩ kỹ câu nói của Phê-rô, chỉ thấy nổi bật tấm lòng chân thực thương mến Thầy: Thương Thầy nhưng không biết làm sao, đành chỉ cầu xin Thiên Chúa can thiệp cho Thầy khỏi gặp cảnh ấy. Không hiểu sao Thánh sử Mat-thêu lại dùng tiếng "trách" để tường thuật cảnh ấy. Thương Thầy đến độ bị Thầy gọi là Xa-tan! (“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy” – Mt 16, 22-23). Rồi khi người thu thuế ở Ca-phac-na-um đến đền thờ hỏi về việc nộp thuế, thì Phê-rô cũng được Thầy bàn tính và kêu ông đi "nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh" (Mt 17, 24-27). 

Khi quân dữ tới bắt Thầy, cũng vì yêu thương Thầy, thấy Thầy không có một lỗi lầm nào dù rất nhỏ, nên giận quá, tuốt gươm chém đứt phăng một cái tai của một tên đầy tớ vị thượng tế; nhưng Đức Giê-su bảo Phê-rô: "hãy xỏ gươm vào vỏ" và chữa lành tai cho tên quân (Ga 18, 10-11). Bị Thầy quở mắng và thấy Thầy chấp nhận để quân dữ bắt đi, tuy không dám cãi lời Thầy, nhưng Phê-rô vẫn lẽo đẽo theo từ xa xa để xem họ sẽ làm gì đối với người Thầy mà mình rất mực yêu thương, kính trọng. Trong khi đó, thì "các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26, 56). Lẽo đẽo theo Thầy để rồi chối Thầy tới ba lần trong một đêm (Mt 26, 69-75), mặc dù trước đó đã đoan chắc "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." (Mt 26, 35). 

Trong khi các môn đệ khác đều quá sợ hãi mà bỏ trốn hết, thì dù Phê-rô có đi theo Thầy từ xa xa, nhưng vẫn không tránh khỏi nỗi lo sợ. Vì thế, trong trường hợp này (3 lần chối Thầy), Phê-rô vẫn rất thật với lòng mình. Cũng bởi Phê-rô chỉ là một con người với bản tính người 100%, mà đã là con người thì ai chẳng sợ sự dữ. Đến Thầy mình là Thiên Chúa, khi bản tính loài người trỗi dậy cũng rất sợ cuộc khổ nạn, sợ đến độ đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni, huống hồ! Sợ bị bắt như Thầy nên phải chối, trong lòng nghĩ chối là thượng sách nên nói thẳng ra, “nghĩ sao nói vậy” mà! Tuy nhiên, sau lần chối thứ ba, nghe tiếng gà gáy, "Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: "Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần." Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26, 75). Chỉ có người bộc trực mới có cử chỉ như vậy. 

Cũng đã có một vấn nạn: Khi thấy Thầy đi trên mặt biển, kể cả lúc Thầy đã sống lại và hiện ra với các môn đệ, mà Phê-rô vẫn tưởng Thầy là ma; rõ ràng ngài vẫn chưa thực sự tin Thầy mình là Thiên Chúa, vẫn "bán tín bán nghi" (nửa tin nửa ngờ); như vậy thì phải hiểu như thế nào về tính chân thực, ngay thẳng của Phê-rô? Vấn đề ở đây là nói về đức tính cương trực của thánh nhân, không phải nói về đức tin. Có thể đức tin của Phê-rô chưa thực sự vững vàng, nên lúc thì tuyên xưng Thầy là Thiên Chúa, khi thì lại cho Thầy là ma; nhưng đức tính nói thẳng nói thật của ngài vẫn chỉ là một. Nghĩ làm sao thì nói thẳng ra như thế, không hề úp mở. Thánh Phê-rô đã “rất người” khi bộc lộ chân tính của mình. Chính Đức Giê-su Thiên Chúa – Đấng thấu suốt mọi điều thầm kín nhất của con người – còn thương mến đức tính công minh chính trực của thánh nhân, đến độ khen ngợi: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc…"; và hứa: "anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16, 18). Người đã hoàn toàn tin tưởng Phê-rô nên mới trao cho trách nhiệm "hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga 21, 17). Điều đó cho thấy đức tính chân thực, tin yêu của Phê-rô đáng quý biết chừng nào ! 

Tới ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ được Thánh Thần ngự xuống ban sự hiểu biết và nhất là lòng can đảm, thì các ngài đã rao giảng Tin Mừng bằng ngôn ngữ của các ngài (xứ Ga-li-lê) nhưng thính giả lại nghe thành tiếng nói bản xứ của họ, khiến "Ai nấy đều sửng sốt và phân vân, họ bảo nhau: "Thế nghĩa là gì?", và cũng có một số người chế nhạo: "Mấy ông này say bứ rồi!" Thấy vậy, Tông đồ Phê-rô ngay lập tức nói với đám đông: "Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba." (chưa tới giờ dùng bữa, chưa uống rượu thì làm sao mà "say bứ" được!). Để rồi từ đó, Thánh nhân giảng cho dân chúng biết về ngày cánh chung, đồng thời khẳng định về Đấng Cứu Thế Giê-su Na-da-ret, kêu gọi mọi người sám hối "kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được ơn cứu độ." Kết quả lời giảng của Thánh Phê-rô thật quá sức tưởng tượng: "Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo." (Cv 2, 1-41). 

Lời Đức Giê-su truyền cho Phê-rô "hãy chăn dắt chiên của Thầy", sau ngày Lễ Ngũ Tuần, với kết quả rực rỡ như nêu trên, lại được Thánh nhân lặp lại trong thư gửi "những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ: Pon-tô, Ga-lát, Cáp-pa-đô-ki-a, A-xi-a và Bi-thy-ni-a"; ngài ôn tồn khuyên nhủ: "Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên." (1Pr 5, 1-3). 

Rõ ràng cái bản tính "người-rất-người" của "Ông ruột ngựa" Phê-rô đã được củng cố, phát triển và thật sự thăng hoa vào ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi Đức Giê-su Ki-tô phục sinh. Thánh Thần đã biến đổi căn tính của ngài trở nên can trường, dám nói lên Sự Thật về Chân lý Cứu Độ mà Thầy Giê-su vâng mệnh Chúa Cha thực hiện tại trần gian này. Cũng đúng như lời tiên báo của Đức Ki-tô ("Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết." – Mc 13, 9), khi đi rao giảng Tin Mừng, các Tông đồ đã bị bắt, nhưng được Thiên thần giải thoát. Thánh Phê-rô cùng các Tông đồ lại tiếp tục giảng dạy trong đền thờ và lại bị điệu ra trước Thượng Hội đồng. Cuối cùng, Thánh nhân được ơn Tử Vì Đạo. 

Ôi! "Kính lạy Thánh Phê-rô là Tông đồ Cả của Chúa Giê-su, là đầu cùng là cột cái Hội Thánh, là thầy dạy mọi sự thật.  Chúa Giê-su đã phó các con chiên cho người coi sóc, đã đặt người cầm giềng mối các giáo dân, đã ban cho người chìa khóa Nước Thiên Đàng. Chúng con vui mừng vì thánh Phê-rô đã được chức cao quyền trọng như vậy, chúng con xin chọn người làm quan thày, cậy người coi sóc gìn giữ những con mọn này cho khỏi miệng sói rừng là ma quỉ. Lại xin cho những ai lạc đàng được biết chính nẻo là đạo thánh  mà tin, cùng giữ cho vững bền; đến ngày sau qua khỏi đời này, xin thánh Phê-rô mở cửa Thiên đàng cho chúng con được hiệp lại một nhà một nước, mà thờ phụng chầu chực Chúa tạo thành muôn vật, hằng vui sống, hằng trị đời đời chẳng cùng.  Amen." (Kinh cầu cùng Thánh Phê-rô Tông đồ –Trang "Kinh nguỵên tiếng Việt" –Thanhlinh.net). 

JM. Lam Thy ĐVD. June 27, 2016

PHÊRÔ và PHAOLÔ
Niềm vui rộn rã dâng cao
Niềm tin lung linh lấp lánh
Cúi xin nhị vị hiển thánh
Dìu đường Giáo hội ngàn sau
            Lời ca hân hoan ngọt ngào
            Ngân vang hòa điệu cao vút
            Tôn vinh hai thánh trụ cột
            Rạng ngời vinh phúc trời cao
Phêrô chối Chúa ba lần
Cả đời ăn năn khóc lóc
Chiên con Chúa trao chăn dắt
Chiên mẹ cũng dắt dìu luôn
            Phaolô ngã ngựa một lần
            Hăng say rao truyền Nước Chúa
            Khắp nơi sáng ngời Chân lý
            Hạt giống càng lớn mạnh thêm
Thạch bàn Phêrô vững kiên
Xây dựng Giáo hội muôn thuở
Đồng trụ Phaolô chói lóa
Xây dựng Giáo hội vĩnh hằng
TRẦM THIÊN THU

29-6-2013

PHÊRÔ, PHAOLÔ, BẠN VÀ TÔI 

Tại sao hai thánh tông đồ cả lại mừng lễ chung với nhau? 

Một số thánh nhân, vì là anh em với nhau, vì cùng tử đạo, vì là mẹ con, vì có những điểm chung nhất, nên được mừng lễ trùng ngày với nhau hoặc sát gần nhau. Vậy thánh Phêrô và thánh Phaolô tương quan với nhau thế nào mà lại có ngày lễ kính cùng với nhau? 

Đức Tổng Giám Mục Patrick Flores đã từng đặt câu hỏi này với giáo dân trong bài giảng của mình.  Và rồi ngài tự trả lời cách hóm hỉnh: “bởi vì hai thánh nhân không thể sống chung với nhau được trên thế gian, nên Chúa bắt các ngài phải chung với nhau trên thiên đàng.”(!) 

Câu chuyện hài hước này rất có cơ sở. Thánh kinh cho thấy hai ông thật sự khác biệt nhau về tính cách, chênh lệch nhau về đẳng cấp:

·     Người kém văn hóa, kẻ trí thức cao

·     Người đã có vợ, kẻ vẫn độc thân

·     Người rút gươm bảo vệ Chúa, kẻ phóng ngựa truy giết những ai theo Chúa

·     Người giảng dạy cho giới đã cắt bì, kẻ loan Tin Mừng cho dân ngoại. 

Chính thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Galata đã thừa nhận sự đụng độ với thánh Phêrô ở Antiokia.  Ông đã cự lại thánh Phêrô vì đã không dám công khai dùng bữa với lương dân như trước khi nhóm cắt bì đến (từ cự lại là nguyên văn của Phaolô trong Gl 2, 11). 

Điều rất dễ thương là, trong tất cả sự khác biệt cũng như cãi vã đó, thánh Phaolô luôn nhìn nhận vị trí quan trọng của thánh Phêrô với tư cách là người đầu tiên được Chúa Giêsu cho thấy Người đã phục sinh (1Cr 15, 5), một tư cách xứng đáng với cương vị thủ lĩnh.  Một sự trân trọng rất tuyệt đến nỗi tính cách khác biệt không hề làm cản trở sứ mạng và lý tưởng của hai thánh nhân.  Phần mình, thánh Phêrô cũng không kém cao thượng khi bắt tay Phaolô để tỏ dấu hiệp thông (Gl 2,10).  Điểm độc đáo này được Giáo Hội đưa vào kinh tiền tụng trong ngày lễ 29/06: “các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Ðức Kitô.”  Để rồi từ những khác biệt tính cách và mâu thuẫn đường lối đó, các ngài đã trở thành: 

Hai người tiên phong, hai sao sáng đi đôi và hai tướng anh hùng. 

Thế còn anh và em?  Còn bạn và tôi thì sao? 

Dĩ nhiên chúng ta thế nào cũng có các điểm khác biệt, và dĩ nhiên chúng ta đã từng cãi vã, giận hờn.  Không ít lần chúng ta đặt câu hỏi tại sao và tại sao người mà mình trọn niềm tin tưởng lại cư xử như thế.  Đã nhiều lần ta như muốn buông một bàn tay thân yêu, rời xa một bờ vai thân thiết, phớt lờ một ánh mắt thân thương.  Chỉ vì chúng ta khác biệt nhau, không hiểu nhau.  

Phải chăng ta khác biệt nhau và rồi ta so đo tính toán với nhau?  Để rồi ta hát mãi điệp khúc sau đây:

·     Đúng là anh giầu có hơn tôi thật, tôi không quên được đâu vì anh thường xuyên nhắc tôi về điều đó, nhưng anh cũng biết tôi có rất nhiều tài, còn về sắc đẹp thì không cần bàn cãi là ai hơn nhé!

·     Dĩ nhiên em chu đáo tỉ mỉ, nhưng cũng vì thế em thường sa đà vào các tiểu tiết và chi li, tính toán, phê bình đến mức nhỏ nhen.

·     Anh nghĩ chuyện to lớn trên trời, nhưng chuyện trước mắt, ngay trong nhà, anh có thấy đâu?

·     Sao em nói nhiều như vậy mà anh cứ ngồi im thin thít thế kia? ·     ...

·    Và còn bạn nữa! Chúng ta có còn là bạn nữa không, mà sao khi lòng dạ mình rối bời lên thì bạn cứ trơ trơ như không cảm xúc vậy?

·    Có nhiều điều mình muốn nói, nhưng không nói ra vì mình nghĩ bạn chẳng thể nào hiểu được. 

Khác biệt giữa Phêrô và Phaolô làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên phong phú hơn.  Các khác biệt của chúng ta lẽ ra là để bổ sung cho nhau và để làm cho đời ta thêm màu hương sắc, cũng như các giới hạn của cá nhân là để chúng ta cần đến nhau hơn trong cuộc trần này.  Điều quan yếu là ta biết trân trọng người khác và chiến thắng cái tôi ích kỷ. 

Phêrô và Phaolô, hai ngôi sao “chỏi” đều tỏa sáng trên bầu trời Thiên quốc, hai con người Phêrô và Phaolô trở thành đồng trụ và bàn thạch cho tòa nhà Giáo Hội.  Tình yêu đối với Chúa Giêsu làm nên điều kỳ diệu này.  Chỉ có tình yêu đủ lớn mới có thể làm cho các bất đồng giữa vợ chồng, giữa bạn bè trở thành một liên kết phong nhiêu, một tương giao phong phú.  Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có tình yêu còn ở lại. 

Anh và em, bạn và tôi đã giận hờn, tranh cãi, thậm chí căm thù nhau trong quá khứ.  Có những điều cứ tái đi tái lại nhiều lần như một căn bệnh mãn tính, nan y.  Chúng ta có quá nhiều khác biệt mà.  Vẫn biết gương vỡ khó lành, vẫn biết ly nước đổ ra không thể lấy lại hết, nhưng tình yêu sẽ bù đắp tất cả và tình yêu sẽ làm cho tấm gương và ly nước lấy lại sau đó trở nên kỳ thú hơn, ngon lành hơn. 

Có bao giờ chúng ta trân trọng nhau cho đúng mức không?  Có bao giờ anh và em cầu nguyện cho nhau rồi nói với Chúa về những lỗi lầm, yếu đuối của nhau chưa?  Có bao giờ bạn và tôi, chúng mình cùng cầu nguyện với nhau để chấp nhận các khác biệt của nhau mà mưu cầu công ích, mà lo cho đại cuộc không?  Đã bao giờ tôi nhìn ra được khía cạnh tốt đẹp của sự khác biệt, để yêu mến những gì “bất thường” nơi anh em, và phát huy những gì “cá biệt” của tôi nhằm hướng tới những điều cao quý hơn chưa? 

Xin hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cầu cho chúng con. 

Pr. Nguyễn Đức Thắng June 27, 2016

 

<<<    
 
     

Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)