| |
Teresa
Calcutta - Dịch giả: Ngọc
Đính, CMC |
|
Ch
11: TÌNH YÊU BIẾN ĐỔI NHỮNG CON TIM
Ơn gọi của Mẹ Ma-ri-a
là đón nhận Chúa Giê-su vào cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã chấp nhận làm
người nữ tì của Thiên Chúa. Và rồi Mẹ đã vội vã ra đi đem Chúa
Giê-su đến cho thánh Gio-an Tẩy Giả và mẹ ngài là bà thánh Ê-li-sa-bét.
Ngày nay cũng Chúa Giê-su hằng sống ấy đến với chúng ta, và như
Mẹ Ma-ri-a, chúng ta cũng phải ra đi vội vã để đem Người đến cho
tha nhân.
Chúa đã tự trở nên người đói khát, người trần trụi, người vô gia
cư để chúng ta có thể làm thỏa cơn đói tình yêu của Người đối
với chúng ta. Chúa vẫn còn lặp đi lặp lại, “Các ngươi đã làm cho
chính Ta.”
Lời mời gọi ấy hướng đến các bạn.
Các bạn có sẵn lòng đáp lại không?
Lời mời gọi ấy là lời mời gọi tất cả các Ki-tô hữu.
Tất cả chúng ta đều được mời gọi hãy thuộc về Thiên Chúa. Nhưng
một số bạn được mời gọi để dấn thân đặc biệt trong thiên chức
linh mục và đời sống tu trì. Ơn gọi ấy là thuộc trọn về Chúa Giê-su
đến độ không có gì có thể tách lìa các bạn ra khỏi tình yêu Chúa
Ki-tô.
Và công việc các bạn hay tôi phải làm chỉ là thể hiện tình yêu
chúng ta dành cho Chúa Ki-tô ra hành động mà thôi.
NÊN MỘT VỚI NGƯỜI NGHÈO
Các nữ tu và các tu huynh của chúng tôi được mời gọi trở nên những
Thừa Sai Bác Ái. Họ là những người trẻ được mời gọi để trở nên
những người mang tình yêu Thiên Chúa.
Tại đất nước I-ê-men, nơi chúng tôi được yêu cầu đến sau 600 năm
không còn sự hiện diện của Ki-tô Giáo, sự hiện diện của các nữ
tu đã thắp lên một ánh sáng mới trong đời sống của dân tộc ấy.
Một vị thủ hiến Hồi Giáo đã viết về Rô-ma, “Các nữ tu đang làm
gì tại đây? Họ đang cho Chúa Ki-tô đói ăn, cho Chúa Ki-tô trần
trụi mặc, cho Chúa Ki-tô vô gia cư một mái nhà để ở.”
Khi đến nơi, chúng tôi được giao nhiệm vụ chăm sóc những người
phong cùi. Khi ngửi thấy mùi hôi thối và nhìn thấy cơ thể thương
đau của họ, tôi đã khóc lên, “Lạy Chúa Giê-su, lẽ nào có thể để
cho Chúa bị lơ là và hôi thối như vậy sao?”
Làm thế nào có thể phục vụ trong những điều kiện như vậy? Để đạt
được mục tiêu công việc, chúng tôi, những Thừa Sai Bác Ái, dấn
thân yêu mến Chúa Ki-tô bằng một tình yêu không san sẻ trong đức
khiết tịnh, qua sự tự do của đức khó nghèo, và hoàn toàn lệ thuộc
trong đức tuân phục.1
Nhưng hội dòng chúng tôi còn có lời khấn thứ tư nữa: đó là hết
lòng phục vụ những người nghèo khó khốn cùng nhất một cách nhưng
không. Lời khấn này, một lời khấn tình yêu, ràng buộc chúng tôi
trọn vẹn với những người nghèo khó nhất và làm cho chúng tôi tận
tuyệt lệ thuộc vào Chúa Quan Phòng.
THÁNH THỂ VÀ NGƯỜI NGHÈO
Có thể có người sẽ hỏi, “Ai là người nghèo nhất trong số những
người nghèo?”
Đó là những người không được đoái hoài, những người không được
yêu thương, những người không được chăm sóc, những người đói khát,
những người bị quên lãng, những người trần trụi, những người vô
gia cư, những người phong cùi, những người say sưa. Nhưng chúng
tôi, những Thừa Sai Bác Ái cũng là những người nghèo khó nhất
trong số những người nghèo ấy.
Để có thể làm được điều chúng tôi đang làm và sống nếp sống chúng
tôi đang sống, mọi Thừa Sai Bác Ái phải hợp nhất đời sống mình
với Chúa Giê-su Thánh Thể. Trong Thánh Thể, chúng tôi nhìn ngắm
Chúa Giê-su dưới hình bánh. Còn trong người nghèo, chúng tôi nhìn
ngắm Chúa Ki-tô đang ẩn thân dưới dáng hình tiều tụy. Thánh Thể
và người nghèo chỉ là một tình yêu duy nhất.
Để có thể làm việc, để có thể nhìn thấy, để có thể yêu thương,
chúng tôi cần có sự hợp nhất với Thánh Thể.
Vài năm đã qua nhưng tôi vẫn không sao quên được một thiếu nữ
người Pháp đã đến thành phố Can-quít-ta vào một ngày nọ.
Thiếu nữ ấy trông rất lo âu. Cô đến làm việc tại Nhà Hấp Hối chúng
tôi dành cho những người nghèo khó. Thế rồi, sau mười ngày, cô
đến gặp tôi.
Cô ôm chằm lấy tôi và reo lên, “Con đã gặp được Chúa Giê-su rồi!”
Tôi hỏi cô đã gặp Chúa Giê-su ở đâu.
Cô đáp, “Tại Nhà Hấp Hối dành cho những người cùng khổ.”
“Con đã làm gì sau khi gặp được Chúa Giê-su?”
“Con đã đi xưng tội và rước lễ sau 15 năm.”
Tôi hỏi tiếp, “Con còn làm gì nữa không?”
“Con đã gửi một bức điện tín cho cha mẹ và báo tin con đã gặp
được Chúa Giê-su.”
Tôi nhìn thiếu nữ ấy rồi nói, “Bây giờ, con hãy đi thu xếp đồ
đạc và trở về gia đình. Con về nhà và trao ban niềm vui, tình
yêu, và bình an cho cha mẹ của con.”
Người thiếu nữ trở về rạng rỡ hân hoan, bởi vì lòng cô đang tràn
ngập niềm vui. Cô đã về và đem theo một niềm vui sướng biết bao
cho gia đình!
Tại sao thế?
Bởi vì cô đã đánh mất sự trong trắng của tuổi xuân và đã tìm lại
được.
ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NHỜ TÌNH YÊU
Các nữ tu chăm sóc hàng ngàn hàng vạn người phong cùi. Các chị
làm vệ sinh cho những người phong cùi với các vết thương lở lói,
vì đó là các thương tích của Chúa Giê-su. Ở đó, chúng tôi tìm
gặp Chúa Giê-su.
Một ngày kia, một nữ tu đang dịu dàng chăm chút những vết lở cho
một người phong cùi. Một vị giáo sĩ Hồi Giáo đứng bên cạnh quan
sát. Ông nói, “Suốt nhiều năm qua, tôi vẫn tin Đức Giê-su Ki-tô
là một nhà tiên tri. Nhưng hôm nay, tôi tin Ngài là Thiên Chúa
vì Ngài có thể ban một niềm vui như thế cho nữ tu này để làm công
việc của chị với thật nhiều tình thương như thế.”
Tại thành phố Nữu Ước, chúng tôi có một nhà dành cho các bệnh
nhân liệt kháng đang hấp hối vì chứng bệnh mà tôi gọi là “bệnh
cùi của phương Tây.” Vào đêm Giáng Sinh, tôi đã khai trương ngôi
nhà này như một món quà dâng cho Chúa Giê-su để mừng sinh nhật
của Người. Lúc đầu, chúng tôi khai trương với 15 gường cho một
số bệnh nhân liệt kháng và cả bốn thanh niên tôi đã đưa ra khỏi
nhà giam vì họ không muốn chết trong đó. Họ là những quí khách
đầu tiên của chúng tôi.
Tôi có một nhà nguyện cho họ. Ở đó, các thanh niên này, những
người thật xa lạ với Chúa Giê-su, cầu nguyện hay xưng tội, và
có thể trở về với Chúa nếu họ muốn. Nhờ phúc lành Chúa ban và
tình thương của Người, trái tim của những bệnh nhân này đã hoàn
toàn biến đổi.
Một lần tôi đến nơi vừa lúc một bệnh nhân phải đi bệnh viện. Anh
ta nói với tôi, “Mẹ Tê-rê-xa ơi, Mẹ là bạn của con. Con muốn ngỏ
lời với một mình Mẹ thôi.” Thế là các chị ra ngoài, và anh ta
tâm sự.
Anh ta đã nói những gì nào? Anh ta là một người đã bỏ xưng tội
chịu lễ những 25 năm. Trong thời gian ấy, anh ta chẳng biết Chúa
Giê-su là ai.
Anh ta kể cho tôi thế này, “Mẹ biết, Mẹ Tê-rê-xa này, khi bị nhức
đầu như búa bổ, con nghĩ đến sự đau đớn Chúa Giê-su đã chịu khi
người ta đội mão gai cho Người. Khi bị đau lưng buốt hồn, con
nghĩ đến Chúa Giê-su khi Người bị đánh đòn. Khi cảm thấy tay chân
mình nhức nhối đến ghê rợn, con nghĩ đến nỗi đau đớn của Chúa
Giê-su khi bị quân dữ đóng đinh trên thập giá. Con xin Mẹ hãy
đưa con về nhà. Con muốn được chết có Mẹ ở bên.”
Tôi được phép bác sĩ đưa anh về nhà với tôi. Tôi đưa anh lên nhà
nguyện.
Tôi chưa bao giờ được nhìn một người thưa chuyện với Chúa như
cung cách người thanh niên này thân thưa với Người. Có một tình
yêu cảm thông giữa Chúa Giê-su và anh ta. Sau đó ba ngày, anh
đã qua đời.
Thật khó mà hiểu được sự thay đổi nơi người thanh niên kia. Điều
gì đã tạo nên sự thay đổi đó? Có lẽ là do tình yêu thương hiền
từ các nữ tu đã dành cho anh khiến anh hiểu ra Thiên Chúa đã yêu
thương anh.
Chỉ riêng tại thành phố Can-quít-ta, chúng tôi đã lượm được 36.000
người trong vòng 25 năm, trong số đó chừng 17.000 người đã qua
đời hết sức tốt lành. Tôi cảm nhận được phẩm giá cao quí nhất
của một đời người chính là có được một cái chết an lành trong
Thiên Chúa.
Một ngày nọ, tôi đã lượm được một người đàn ông dưới cống rãnh.
Thân thể ông ta nhung nhúc những giòi với bọ.
Tôi đem ông về nhà của chúng tôi, và ông ta đã nói gì?
Ông ta chẳng nguyền rủa chẳng chửa thề. Ông cũng không oán trách
một ai. Ông chỉ thều thào, “Tôi đã sống như một con vật cà bơ
cà bất đầu đường xó chợ, nhưng tôi sắp được chết như một thiên
thần, được yêu thương và được chăm sóc!”
Chúng tôi phải mất những ba tiếng đồng hồ để lau lọt cho ông.
Sau cùng, ông ngước nhìn chị nữ tu và chào, “Này chị, tôi đi về
với Chúa đây.” Và rồi ông tắt thở.
Tôi chưa bao giờ thấy được nụ cười mãn nguyện trên khuôn mặt ai
rạng rỡ như nụ cười trên gương mặt người đàn ông ấy.
Ông ta đã về nhà Chúa.
Các bạn hãy xem những điều tình yêu có thể làm được!
Có thể chị nữ tu trẻ tuổi kia lúc đó không nghĩ đến điều ấy, nhưng
chị đang tiếp xúc với thân thể của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su đã
nói, “Những gì các ngươi làm cho người bé mọn nhất trong các anh
em của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40).
Và đây là nơi để các bạn và tôi tháp nhập vào chương trình của
Thiên Chúa.
Chúa đã đốt nóng tình yêu của Người trong con tim chúng ta để
chúng ta có thể yêu thương những anh chị em chúng ta gặp gỡ bằng
chính tình yêu của Người.
CHÚ TÍCH
1. Để trở thành một phần tử suốt đời thuộc về hội dòng Thừa Sai
Bác Ái, ngoài bốn lời khấn, các phần tử còn trải qua sáu giai
đoạn cam kết khác nhau trong quá trình huấn luyện. Quá trình huấn
luyện này kéo dài trên chín năm rưỡi, gồm có các mức độ sau: 1)
chí nguyện sinh (sáu tháng) – đương sự được có cơ hội quan sát
đời sống và công việc của các Thừa Sai Bác Ái; 2) đệ tử (một năm)
– để hội dòng cũng như đương sự có thời giờ tìm hiểu nhau; 3)
nhà tập (hai năm) – giúp đương sự từng người hiểu rõ và bắt đầu
thực tập cuộc đời của một Thừa Sai Bác Ái; 4) thời gian hạn thệ
(năm năm) – đi sâu vào cam kết đời tu và chuẩn bị cho đương sự
tham gia vào công tác tông đồ và sứ mạng của hội dòng; 5) thời
gian chuẩn bị sau cùng (một năm) – giai đoạn đặc biệt để làm mới
lại và chuẩn bị gần cho đương sự trước khi vĩnh thệ ; 6) vĩnh
thệ (huấn luyện trường kỳ) – các Thừa Sai Bác Ái được dạy cho
biết rằng việc đào tạo và huấn luyện không hề chấm dứt sau khi
vĩnh thệ. Ngoài việc thụ huấn chương trình đào luyện trường kỳ,
họ còn có một thời gian đặc biệt để hâm nóng, thường là 10 năm
sau khi vĩnh thệ.
|