| |
Teresa
Calcutta - Dịch giả: Ngọc
Đính, CMC |
|
Ch
12: TAY CHÂN CHÚA GIÊ-SU
Chúa Giê-su đã dùng hầu hết thời gian của Người trên trần gian
này để nhắc đi nhắc lại một điều, “Các con hãy yêu thương nhau
như Thiên Chúa yêu thương các con. Như Chúa Cha đã yêu Thầy thế
nào, Thầy cũng yêu các con như vậy. Các con hãy thương yêu nhau”
(Ga 15:9).
Khi nhìn lên thập giá, chúng ta nhận ra1 Chúa Giê-su đã yêu thương
chúng ta thế nào. Khi nhìn lên nhà tạm, chúng ta biết được Chúa
Giê-su hiện vẫn đang yêu thương chúng ta. Vì thế, điều cực kỳ
quan trọng là phải học biết cầu nguyện nếu chúng ta thực sự muốn
yêu và được yêu. Chúng ta hãy dạy cho con cái chúng ta biết cầu
nguyện. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với chúng.
Các bạn hãy nghĩ về hoa trái của lời cầu nguyện của chúng ta:
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Cầu nguyện đưa chúng ta đến
chỗ có thể tuyên xưng, “Tôi tin.”
Hoa trái của đức tin là đức mến. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ
thưa lên lời, “Tôi yêu.”
Hoa trái của đức mến là phục vụ. Đức mến đưa chúng ta đến chỗ
nói lời, “Tôi muốn phục vụ.”
Và hoa trái của phục vụ là bình an.
TÌNH YÊU VÀ PHỤC VỤ BẮT ĐẦU TỪ GIA ĐÌNH
Chúng ta không bao giờ được quên rằng: tình yêu bắt đầu từ gia
đình. Đúng vậy, hôm nay, chúng ta đang trải qua một giai đoạn
khủng khiếp vì có rất nhiều gia đình đổ vỡ và bất hạnh.
Người ta không cầu nguyện với nhau. Không còn sự chia sẻ. Không
còn niềm vui phục vụ lẫn nhau.
Cảnh nghèo không phải là nguyên nhân.
Không, không phải do cái nghèo.
Vậy thì điều gì gây ra tình trạng này?
Đó là lòng ham hố của cải và địa vị một cách vô độ, điều này thâm
nhập vào cuộc sống chúng ta khiến chúng ta yêu thích nó hơn cả
gia đình của mình.
Vì thế, tôi thường hay nói với các bạn trẻ, “Một thanh niên yêu
một thiếu nữ là một điều rất đẹp. Một thiếu nữ yêu một thanh niên
cũng là một điều rất đẹp. Nhưng các con phải đảm bảo là các con
yêu thương nhau bằng một con tim tinh tuyền, một con tim trong
sạch – hơn là bằng tiền bạc, hơn là bất kỳ của cải nào. Tặng vật
cao quí nhất các con có thể trao tặng nhau là một con tim trong
sạch và một thân xác trinh bạch.” Việc đánh mất sự tinh tuyền,
mất đức trong sạch, và mất sự trinh bạch đã làm ảnh hưởng đến
quá nhiều cuộc đời.
Tôi không bao giờ mệt mỏi nói về đời sống gia đình và những khát
vọng của tôi về các gia đình phải nên thánh và hợp nhất, tình
yêu phải ngự trị giữa mọi phần tử trong gia đình.
Người chồng và người vợ phải sống chung với nhau thế nào? Rõ ràng
chúng ta đã có một mẫu gương tuyệt vời: đó là Thánh Gia Na-gia-rét.
Tại sao chúng ta lại gọi ba Đấng là “Thánh Gia Na-gia- rét?” Bởi
vì giữa các ngài có một sự thánh thiện sống động. Các ngài có
cùng một con tim đầy tràn tình yêu trong chính trái tim của Thiên
Chúa.
Ở đó không có chia rẽ.
Không có hiểu lầm.
Chúng ta biết rằng Thánh Cả Giu-se đã yêu thương Đức Ma-ri-a hết
dạ hết tình. Khi nhận thấy Đức Ma-ri-a mang thai, lẽ ra Ngài đã
có thể giả định những điều tệ hại nhất. Ngài cũng có thể đi thẳng
đến thầy cả thượng tế để tố cáo người bạn của mình phạm tội ngoại
tình. Nhưng không, Thánh Cả đã không làm thế bởi vì Ngài đã yêu
thương Mẹ Ma-ri-a thắm thiết! Ngài chẳng thà chịu ném đá còn hơn
để bạn mình chịu ném đá. Ở đây, chúng ta học được một mẫu gương
về tình yêu thắm thiết, về sự quan tâm lẫn nhau. Và một thiên
thần đã cho Thánh Giu-se biết trong giấc mơ rằng bào thai đó chính
là Con Một Thiên Chúa.
Nếu người cha và người mẹ cùng quan tâm lẫn nhau như thế, tự nhiên,
con cái cũng sẽ học được điều ấy từ nơi cha mẹ. Và rồi đến lúc
thành cha thành mẹ, chúng cũng biết phải làm gì và làm như thế
nào.
Hãy dạy cho con cái các bạn biết yêu thương nhau.
Hãy dạy cho con cái các bạn biết tôn trọng nhau.
Hãy dạy cho con cái các bạn biết chia sẻ cho nhau.
Hãy dạy cho con cái các bạn, vì ngày nay nhiều trường học không
dạy cho chúng những điều này.
Tôi không thể quên được một em nhỏ bốn tuổi Ấn Giáo đã dạy cho
tôi biết phải minh chứng tình yêu vĩ đại như thế nào.
Tại thành phố Can-quít-ta, có một thời kỳ chúng tôi không còn
lấy một chút đường. Tôi cũng không biết tại sao em nhỏ ấy lại
nghe biết tôi chẳng còn một chút đường nào cho các con cái của
tôi. Thế là em đến thưa với cha mẹ, “Con sẽ không ăn đường trong
ba ngày. Con sẽ lấy đường của con mà cho Mẹ Tê-rê-xa.”
Em nhỏ ấy đã yêu thương bằng một tình yêu vĩ đại. Em đã yêu thương
cho đến đau khổ. Chúng ta cũng phải như thế mới được.
Các trẻ thơ và các bạn trẻ là những người có tấm lòng hào hiệp.
Họ thường nóng lòng muốn giúp đỡ. Một ngày nọ, hai bạn trẻ đến
nhà chúng tôi và trao cho tôi một món tiền khá lớn.
Tôi hỏi, “Các con lấy tiền ở đâu ra mà nhiều thế?”
Họ đáp, “Hai ngày trước đây, chúng con kết hôn với nhau. Nhưng
trước ngày cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức tiệc cưới
linh đình và cũng không sắm áo cưới, vì thế chúng con có thể biếu
Mẹ món tiền này.”
Tôi hiểu ngay đó là một hy sinh rất lớn lao đối với một gia đình
theo Ấn Giáo. Vì thế, tôi hỏi họ, “Sao các con lại làm như vậy?”
Các bạn biết họ trả lời thế nào không?
Họ đáp, “Chúng con yêu thương nhau thắm thiết nên muốn được chia
sẻ niềm vui yêu thương với những người Mẹ đang phục vụ.”
Hai bạn trẻ ấy đã muốn chia sẻ niềm vui yêu thương.
Các bạn có biết ngay tại nơi các bạn đang sống có rất nhiều người
vất vưởng trên các đường phố hay không? Hằng trăm người mỗi ngày
đến những nhà của chúng tôi chỉ để xin một chút thực phẩm, một
chút hơi ấm tình người, một nụ cười, một cái bắt tay – không hơn
không kém.
Các bạn có biết điều ấy không?
Các bạn hãy đến mà xem!
Tôi
cũng không bao giờ quên tại đất nước Vê-nê-du-ê-la, một ngày nọ
tôi đến thăm một gia đình đã biếu tặng chúng tôi một con chiên.
Tôi đến để cám ơn họ và thấy gia đình ấy có một em nhỏ bất toại.
Tôi hỏi người mẹ, “Tên em nhỏ là gì? Ở nhà, ông bà gọi em tên
gì?”
Người mẹ đã cho tôi một câu trả lời thật quá đẹp. “Chúng con gọi
nó là ‘Ông thầy Tình Yêu,’ bởi vì nó vẫn dạy cho chúng con biết
thế nào là yêu thương. Mọi việc chúng con làm cho nó là để thể
hiện tình yêu của chúng con đối với Thiên Chúa.”
Thật là một tinh thần cao đẹp biết bao!
THẮP LÊN MỘT NGỌN ĐÈN
Tôi còn nhớ một kinh nghiệm rất đẹp khi chúng tôi mở một nhà tại
thành phố Meo-bơn (Melbourne) bên Úc. Các chị em và tôi chia nhau
đi thăm những người nghèo khổ tại khu ổ chuột, vì ở đó có nhà
của chúng tôi.
Tôi đến thăm một túp lều lụp xụp làm bằng phế liệu và gặp được
một ông già neo đơn, quanh ông toàn bụi bặm dơ bẩn. Các bạn thử
tưởng tượng coi thế nào!
Tôi ngỏ lời, “Ông vui lòng để tôi lau rửa chỗ ở của ông, giặt
giũ áo quần cho ông, và làm cho ông một chiếc gường nhé.”
Ông đáp, “Xin đừng quấy rầy. Tôi có sao đâu.”
Tôi nói tiếp, “Ông sẽ cảm thấy khá hơn nếu để cho tôi lau rửa
mọi thứ một chút.”
Ông đáp, “Ừ, muốn làm thì làm.”
Thế là tôi lau rửa giặt giũ tất cả. Sau đó, tôi thắp lên một ngọn
đèn để trong góc nhà đầy những bụi bẩn.
Tôi hỏi, “Ông vẫn thắp ngọn đèn này vào mỗi buổi tối chứ?”
Ông nhìn tôi rồi hỏi vặn, “Thắp cho ai nhỉ? Suốt bao nhiêu năm
dài, có ai thèm đến thăm thằng này đâu?”
Tôi ngỏ ý, “Nếu các chị em của tôi đến thăm ông, ông thắp ngọn
đèn ấy lên nhé?”
Ông ta cười đáp, “Được, tất nhiên rồi!”
Tôi thắp ngọn đèn lên và ra về lúc đèn vẫn sáng. Các nữ tu của
tôi từ hôm ấy chiều nào cũng đến thăm và ông đã thắp lên ngọn
đèn cho họ.
Thế rồi tôi quên bẵng ông ta. Mãi hai năm sau đó, ông đã nhờ các
chị em ở Úc gửi lời thăm tôi, “Nói cho người bạn của tôi rằng
ngọn đèn bà đã thắp sáng lên trong đời tôi vẫn còn cháy sáng.
Nó vẫn còn cháy sáng!”
Một ngày nọ, chúng tôi đưa về nhà chúng tôi một người ngoài đường
dáng vẻ rất giàu có. Ông ta say khướt. Ông ta đứng cũng không
nổi vì quá say!
Chúng tôi đem ông về nhà của chúng tôi. Các nữ tu đối xử với ông
một cách thân thương, nồng thắm, và tử tế.
Sau hai tuần lễ, ông nói với các chị, “Các bà dòng ơi, lòng tôi
đã rộng mở. Nhờ các bà dòng, tôi đã nhận ra Thiên Chúa vẫn thương
yêu tôi. Tôi đã cảm nhận được tình yêu ngọt ngào của Chúa. Tôi
muốn trở về nhà.” Và chúng tôi giúp ông sửa dọn về nhà.
Một tháng sau, ông ghé lại nhà chúng tôi và trao cho các nữ tu
một ngân phiếu đầu tiên của ông ấy. Ông nói với các chị, “Các
chị hãy làm cho những người khác những gì các chị đã làm cho tôi.”
Và ông ta ra đi: một con người biến đổi hoàn toàn.
Tình yêu đã đưa ông về lại với gia đình, với tình thân thương
của con cái, với tình yêu thông cảm của người vợ.
Chúng ta hãy nài xin Mẹ Ma-ri-a dạy cho chúng ta thế nào là yêu
thương và thế nào là biết can đảm để san sẻ.
HỌC
BIẾT SAN SẺ
Trước đây ít lâu, tôi có thực hiện một chuyến đi đến đất nước
Ê-ti-ô-pi. Các chị em của tôi đang hoạt động ở đó giữa thời kỳ
hạn hán khủng khiếp. Ngay lúc sửa soạn đi Ê-ti-ô-pi, tôi thấy
quanh mình rất nhiều trẻ em.
Em nào cũng trao cho tôi một món quà và dặn, “Xin Mẹ đưa cái này
cho bọn trẻ! Xin Mẹ gửi cái này cho tụi nhóc!” Các em có nhiều
món quà muốn gửi cho những người nghèo khó của chúng tôi.
Lúc đó, cũng có một bé con còn rất nhỏ, lần đầu tiên có được một
thanh kẹo xô-cô-la, đến với tôi và nói, “Con không muốn ăn. Mẹ
cầm lấy và đem cho các bạn trẻ nhỏ.”
Em nhỏ ấy đã cho rất nhiều vì đã cho tất cả, và đã cho đi cái
mà em rất thích.
Các bạn đã từng cảm nghiệm niềm vui được trao ban chưa? Tôi không
muốn các bạn cho tôi những thứ các bạn dư thừa. Tôi không bao
giờ để người ta quyên góp giùm tôi. Tôi không muốn như thế. Tôi
muốn các bạn trao ban chính các bạn.
Cái quan trọng nhất là tình yêu được các bạn gói ghém trong hành
vi trao ban. Nếu các bạn muốn có một gia đình hạnh phúc, nếu các
bạn muốn có một gia đình thánh thiện, các bạn hãy học để biết
san sẻ. Các bạn hãy trao đôi tay để phục vụ và trao con tim để
yêu thương.
CHÚ TÍCH
1. Đây là những lời của Mẹ Tê-rê-xa sau khi lãnh giải thưởng Khám
Phá (Discovery) của viện đại học Mác-két (Marquette) vào ngày
13.7.1981. Cảm hứng từ chính tên gọi của giải thưởng, cha Bơ-rút
Bi-vơ (Bruce Biever), linh mục dòng Tên, phó viện trưởng viện
đại học Mác-két đã gọi Mẹ Tê-rê-xa là “nhà khám phá và thám hiểm
đã tỏa chiếu ánh sáng tình yêu Thiên Chúa trong thời đại hoài
nghi và tuyệt vọng, đã khám phá ra những miền đất nhu cầu của
chúng ta chưa thấy có trên bất kỳ bản đồ nào bằng cách cho đi
và đón nhận tình yêu Chúa Ki-tô.”
Vị linh mục dòng Tên còn nói thêm rằng sự hiện diện của Mẹ Tê-rê-xa
Can-quít-ta đã cho mọi người cơ hội công nhận những chiều kích
mới mẻ trong sự khám phá, nhắc nhở cho toàn thể nhân loại về lòng
lân tuất và tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Ngài còn nói rằng
niềm vui mà những người nghèo khó và những người hấp hối cùng
cực nhận được từ nơi Mẹ Tê-rê-xa và sự chăm sóc của các nữ tu
của Mẹ biểu tượng cho một cửa sổ qua đó người ta có thể thoáng
nhìn thấy một thế giới mới.
Những lời bình luận của cha Bi-vơ đề cập đến trái tim trong công
việc của Mẹ Tê-rê-xa, tỏ ra rằng tình yêu của Mẹ hướng dẫn những
người bị bỏ rơi và hấp hối tìm được những chiều kích hy vọng và
niềm vui. Nhờ cuộc sống và gương lành của Mẹ, mọi người từ tất
cả các nước có cơ hội khám phá ra ánh sáng của Thiên Chúa vẫn
đang giãi chiếu trong thời đại chúng ta bằng một ánh sáng rạng
rỡ mới.
|