|
|
| |
Tác
giả: Thánh Phêrô Giulianô Eymard |
|
IX.
Đời sống nội tâm của Đức Maria
1. Đức Maria đã được trang điểm bằng mọi tặng ân, được nên phong
phú bằng mọi nhân đức, được những công trạng khôn sánh, nhưng
Mẹ đã xuất hiện trước mặt thế gian dưới một dáng vẻ bên ngoài
hết sức bình thường. Không có gì là nổi nang trong các hoạt động
của Mẹ; các nhân đức của Mẹ dường như chỉ dưới trung bình. Đời
sống của Mẹ đã trải qua trong thinh lặng và bóng tối, và trình
thuật Tin mừng không nói gì nhiều đến đó. Sở dĩ như thế là vì
Đức Maria phải là gương mẫu của đời sống ẩn dật - một đời sống
ẩn dật trong Thiên Chúa với Chúa Giêsu Kitô - một đời sống mà
chúng ta nên phấn đấu để đề cao và trung hoạ lại trong nếp s ống
của chúng ta. Tôi có ý nói rằng luật thánh thiện mà Thiên Chúa
áp dụng cho linh hồn chúng ta cũng chính là luật mà Ngài đã áp
dụng nơi Mẹ Maria.
Giáo hội hát mừng Đức Maria: "Tất cả vinh hiển của nàng công
chúa là ở trong cung nội." Đây là đặc nét của sự thánh thiện
nơi Đức Maria. Không có gì hiện lộ ra bên ngoài, không có gì đáng
chú ý, tất cả chỉ cho duy mình Thiên Chúa và chỉ mình Ngài biết.
Tuy nhiên, Đức Maria vẫn là thánh thiện nhất, trọn hảo nhất trong
các thụ tạo. Được Thiên Chúa cưng yêu hơn bất cứ thụ tạo nào,
Đức Thánh Trinh Nữ đã lãnh nhận từ lòng quảng đại Ngài những ân
sủng phong phú nhất, những tặng ân tuyệt hảo nhất. Cha Hằng Hữu
đã ban cho Mẹ tất cả các nhân đức thuộc về người mẹ. Chúa Con,
ban cho Mẹ tất cả kho tàng ơn cứu chuộc. Chúa Thánh Thần ban ân
sủng tình yêu. Thế mà Đức Maria đã sống một cuộc sống hết sức
thông thường, hoàn toàn ẩn khuất và vô danh. Như thế, chúng ta
chẳng phải kết luận rằng đời sống nội tâm, rút về ẩn dật là đời
sống trọn lành nhất ư? đời sống hoạt động bên ngoài, ngay cả hoạt
đ ộng vì Chúa, cũng kém trọn lành hơn. Vì thế, cuộc đời của Chúa
Giêsu ẩn khuất khỏi mắt người đời nhiều hơn là lộ diện. Các thánh
cũng đã được đào tạo theo gương Ngài. Là người bạn thân của Thiên
Chúa, chúng ta phải chịu nghiền nát, trở nên như không có gì,
hư vô hoá như Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
2. Do đó, nếu muốn trở nên một vị thánh, chúng ta phải trở thành
những linh hồn nội tâm. Ngoài ra chúng ta còn bị bắt buộc như
thế bởi ơn gọi của chúng ta là những người tôn thờ. Nếu không
có tinh thần nội tâm này, chúng ta sẽ cầu nguyện thế nào được?
Nếu chúng ta không ở thể ở trước mặt Chúa được một lát mà không
dùng đến sách, nếu chúng ta không biết nói gì với Chúa từ đáy
lòng mình, thì chúng ta sẽ làm việc tôn thờ thế nào được. Sao!
Chúng ta không bao giờ có những lời trào tràn từ chính đáy lòng
để thưa với Chúa sao? Chúng ta cứ phải vay mượn những tư tưởng
và ngôn từ của người khác để thưa với Chúa sao? Không, không!
chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những linh hồn nội tâm, tĩnh
niệm. Không ai có thể có nội tâm y như Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Nhưng mỗi người có thể trở nên tĩnh niệm trong chừng mực ân sủng
ban cho. Nếu không có đời sống nội tâm, chúng ta sẽ không bao
giờ lãnh nhận được bất cứ an ủi nào, sự khích lệ nào khi cầu nguyện;
chúng ta sẽ mãi chỉ là kẻ bất hạnh dưới chân Chúa. Nếu chúng ta
muốn trở nên người tôn thờ đích thực, chúng ta phải có tinh thần
nội tâm này. Chúng ta phải biết thưa chuyện với Chúa khi quì gối
trước nhan Ngài, biết hỏi và chờ đợi Ngài trả lời: chúng ta phải
biết hoan hưởng sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải biết
sung sướng làm bạn đồng hành với Ngài, sung sướng trong sự phục
vụ Ngài; phải khoái thú trong tình thân mật rất ngọt ngào, rất
khích lệ của Ngài. Nhưng để khám phá được Trái Tim Chúa Giêsu,
chúng ta phải là người nội tâm. Sau hết, là người nội tâm có nghĩa
là gì? Có nghĩa là yêu mến, tâm sự và sống với Chúa Giêsu. Nhưng
chúng ta không thể nghe tiếng Chúa Giêsu với đôi tai thể lý, không
thể nhìn ngắm Ngài với cặp mắt bằng thịt; vì Ngài chỉ nói với
linh hồn tĩnh niệm. Ngài hoàn toàn nội tại trong phép Thánh Thể:
Ngài không đi vào trong tâm hồn qua hình sắc như khi Ngài còn
tại thế; bây giờ Ngài đi trực tiếp vào linh hồn, và nói chuyện
với mình nó. Khi linh hồn không lớn lên dưới sự hiện diện của
Ngài thì đó là vì Ngài không hành động trên nó – có một cái gì
đó cản bước chân Ngài.
A! chúng ta đừng làm cho lời Chúa phán xưa trở thành không đúng!
Ngài đã phán ách Ngài êm ái, gánh Ngài nhẹ nhàng. Nhưng chỉ đúng
như thế đối với kẻ nào mang gánh và ách ấy với tinh thần tĩnh
niệm và cầu nguyện; nếu khác đi, chúng sẽ trở nên nặng nề và gây
mệt mỏi. Ôi chúng ta ước muốn biết bao được thấy hoàn thành nơi
chúng ta điều đã được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Thánh Trinh Nữ:
"Vương quốc Thiên Chúa ở cùng Bà" – Vương quốc của tình
yêu, của nhân đức, và của những ân sủng nội tâm! Vậy chúng ta
nên bắt đầu trở nên những người tôn thờ và những vị thánh. Cỏ
trong cánh đồng hằng năm vẫn chết đi, bởi vì rễ của chúng không
đâm sâu dưới đất; nhưng cây sến, cây tùng, cây ôliu vẫn đứng vững
năm này qua năm khác, bởi vì các rễ của chúng cắm xuống rất sâu
dưới lòng đất. Để tiến tới mạnh mẽ và bền bỉ, chúng ta cũng phải
hạ mình xuống thật sâu, thậm chí tới mức hủy mình ra hư không.
Ở đó chúng ta sẽ tìm thấy Chúa Giêsu. Ngài ở đó, hoàn toàn hủy
mình: exinanivit. Chính ở chỗ đó mà Đức Maria đã tìm thấy Ngài.
Ôi, ước chi người Mẹ thánh phúc, mẫu gương trọn lành của đời sống
nội tâm của chúng ta, làm cho chúng ta sống trong Chúa Giêsu như
Mẹ đã sống! Ước chi, cũng như Mẹ, chúng ta luôn luôn lưu lại với
Ngài và đừng bao giờ lìa bỏ Ngài!
Thánh Phêrô Giulianô Eymard
Thánh Phêrô Giulianô Eymard đã được Chúa Quan Phòng chọn để sáng
lập hai dòng tu cho Giáo hội: một dòng cho các linh mục, một dòng
cho các nữ tu, cả hai đều hoàn toàn hiến mình để tôn thờ phép
Thánh Thể được trưng bày ra ngoài. Nhưng chính nhờ Đức Maria mà
Thiên Chúa đã ban cho ý muốn Ngài được tôi tớ Ngài biết đến; điều
đó cũng được tuyên bố trong bản tóm tắt án phong chân phước: "Vào
ngày lễ Mình Thánh Chúa Kitô năm 1845, được thúc đẩy bởi một ơn
soi sáng mà chúng ta có thể coi như bởi Chúa, ngài đã hiểu rõ
bản tính công việc mà Ngài đã sớm thực hiện để đề xướng việc thờ
lạy phép Bí tích Cực thánh. Tuy nhiên, chỉ tới khi Đức Thánh Trinh
Nữ (Đấng mà ngài đã cầu khẩn trước ở đền thánh Fourvière để xin
ơn soi sáng và trợ giúp) ban cho ngài hai lời tiên báo, và trong
niềm khiêm tốn tuân theo ý Chúa, ngài mới bắt đầu đặt nền móng
cho hội dòng mới của ngài."
Lời tiên báo thứ nhất xảy ra vào ngày 21 tháng Giêng năm 1851.
Cha Eymard, trong khi ở Đền Thánh Mẫu, đã có một ấn tượng rất
mạnh trong tư tưởng về vấn đề có quá ít người sùng kính đối với
phép Thánh Thể, và rất nhiều người phạm thánh phạm đến Thánh Thể
Chúa. Vài ngày sau, ngày mồng 2 tháng Hai, ý tưởng này trở nên
rõ rệt hơn. Cha Eymard là chủ tịch cuộc họp của dòng ba Marist;
ngài sắp phải đi Fourvière bằng "bước tiến của các thiên
thần". Ngài kể lại: "Tôi nhớ rằng tôi đã không muốn
đi vào thánh đài, do cảm giác khiêm nhường, và tôi đã ở chỗ của
mình sau bục giảng. Ở đó tôi đã hỏi Đức Maria tôi có thể làm được
gì để người ta yêu mến Bí tích Cực thánh. Tôi đã thưa với Mẹ:
'Mỗi hội dòng đều tôn vinh một mầu nhiệm nào đó, còn mầu nhiệm
Thánh Thể là mầu nhiệm vĩ đại hơn tất cả, lại là mầu nhiệm duy
nhất chưa có hội dòng nào!' Sau đó Mẹ đã bảo tôi là Mẹ muốn tôi
hiến thân để làm cho người ta tôn kính Con thần linh Mẹ trong
phép Thánh Thể. Chính lúc đó Mẹ Maria đã tỏ ra rất nhân từ với
tôi. Tôi đã thấy rõ điều Mẹ yêu cầu tôi."
Vâng, chính qua Mẹ Maria mà thánh Eymard đã được dẫn tới Chúa
Giêsu. Ngài đã viết lên vấn đề này trong tập ghi chú những ngày
tĩnh tâm ở Rôma năm 1865. "Chính Đức Thánh Trinh Nữ đã dẫn
tôi lại với Chúa Giêsu: dịp rước lễ Chúa nhật (ở nhà thờ Đức Bà
Laus) hồi lên 12 tuổi; từ dòng Marist đến dòng Thánh Thể."
Thực hành: Chúng ta hãy phấn đấu để sống trong sự tĩnh niệm và
kết hợp với Chúa Giêsu hiện diện trong chúng ta, noi gương Mẹ
chúng ta.
Hoa thiêng: Ôi Maria, Nữ Tử đích thực của đức Vua, mọi vinh quang
của Mẹ đều ở trong nội tâm Mẹ, bởi vì Chúa Giêsu cư ngụ trong
đó.
|
|