LÝ
DO LÀM TAN VỠ
HẠNH PHÚC CỦA
HÔN NHÂN
Bức
tranh hôn nhân mà chúng ta vừa phác họa ở
chương trên cho thấy rằng hạnh phúc
hôn nhân là những gì ta có thể đạt được.
Hoặc những rạn nứt và đổ
vỡ trong hôn nhân cũng là những gì có thể
giải quyết và hàn gắn được.
Nhận xét này không những chỉ dựa theo
kinh nghiệm cá nhân, mà còn được căn
cứ trên kết quả của những trường
hợp trị liệu tại các văn phòng
tâm lý, cũng như khả năng tìm hiểu
và chấp nhận trị liệu của nhiều
cặp vợ chồng.
Hầu
hết các trường hợp khủng hoảng
và đỗ vỡ của hôn nhân đều
do chính mỗi người gây ra. Những bất
ổn đó thường xẩy ra theo một
tiến trình như sau:
TRẠNG
THÁI BẤT ỔN:
Sự
bất ổn hay gọi là khó chịu, bực
dọc trong đời sống tâm lý thường
đem đến những rối loạn tinh
thần, và bất ổn tâm trí.
Hậu
quả của sự rối loạn này, thường
tạo nên nỗi hoang mang, lo lắng có ảnh
hưởng tới trí phán đoán. Trong những
lúc tâm trí căng thẳng và mất quân bình, ít
khi ta nhận ra mình là ai. Kết quả của
nhiều cuộc khảo cứu về đời
sống hôn nhân cho thấy, đa số các vụ
ly dị của đàn ông là ở vào trường
hợp bất ổn này. Ngoài ra, triệu chứng
bất ổn còn tạo nên những cảm nghĩ
nôn nao, khó chịu, bực tức, ít nói, bẳn
gắt, và chán nản. Sự dồn nén nếu
kéo dài sẽ có thể trở thành tâm bệnh.
Nhưng trong thực tế, hầu hết những
trường hợp như thế, người
ta đều từ chối nhận mình có những
bất ổn và cần được giúp đỡ.
TRẠNG
THÁI TỰ TY MẶC CẢM:
Khi
đã không nhận ra mình, không chấp nhận
sự thật nơi mình, người ta thường
hành động bất nhất. Điều này
khiến cho chồng hay vợ họ rất
khó chịu.
Vì
không nhận ra sự sai trái của mình, nhiều
người đã phản ứng ngược
chiều và tiêu cực, bằng cách cho rằng
chồng hoặc vợ không hiểu họ, hay
cố tình coi thường họ. Hậu quả
là người đó tự ý lui vào cô đơn,
và tách biệt họ với xã hội bên ngoài.
Tình
trạng trên sẽ đưa đến thái
độ chối bỏ chính mình (Self-refusal).
Hành động thường mang tính cách giả
dối, che đậy, và miễn cưỡng.
Thí dụ, hôn miễn cưỡng, ái ân miễn
cưỡng, nói cười miễn cưỡng.
Trong hành động có tính cách che đậy và
miễn cưỡng này, người vợ tuy
để bụng giận dỗi chồng, nhưng
bề ngoài làm bộ như không có gì xẩy ra.
Hoặc tương tự, người chồng
rất bực bội với vợ đến
độ có những tư tưởng và hành
động ngoại tình, nhưng lại đóng
kịch ái ân và chiều chuộng vợ.
Vì
phải sống giả tạo với mình, nên
người ta phải tự bao che mình bằng
mặc cảm tự ty, vì không đủ tự
tin để đối diện với thực
tế. Trong đời sống hôn nhân, thực
tế là những khó khăn, vất vả, những
rắc rối thường ngày trong cuộc
sống, những khác biệt về tính tình và
cách thức cư xử với nhau giữa hai
vợ chồng.
Nhiều
người sau một thời gian dài trở
thành mục tiêu chống đối và thế
thủ, đã trở nên mệt mã, chán chường,
rồi buông xuôi. Những công việc thường
ngày của đời sống dần dần
trở thành sức nặng đè bẹp họ.
Trong hoàn cảnh như thế, chỉ cần
một lời nói, một hành động nhẹ
nhàng của một người khác không phải
chồng hay vợ họ, là họ có thể
bị rơi vào cám dỗ, và hư hỏng. Hạnh
phúc hôn nhân của họ bắt đầu bị
phá hủy ngay sau những yếu đuối
này.
TRẠNG
THÁI DỒN NÉN:
Kết
quả của sự bất ổn trong tâm trí
và thái độ sống thiếu tự tin và
thiếu trung thực với chính mình, dần
dà đưa tới tâm bệnh. Bắt đầu
là những uẩn ức, buồn bực, chán
chường, về tâm lý. Về thể lý, nhiều
người cảm thấy nhức đầu,
kém ăn, mất ngủ, hoặc lở loét dạ
dầy. Nữ giới thì thêm triệu chứng
kinh nguyệt thồi sụt bất thường.
Những yếu tố này sẽ dần dần
làm cho con người bị kiệt quệ cả
thể xác lẫn tinh thần.
Trong
nhiều trường hợp, tâm trí bị dồn
nén và căng thẳng quá còn tạo nên những
ảo tưởng, ảo giác gây ra sự hoảng
sợ, và hoài nghi tất cả mọi chuyện.
Nhiều người phải mang dao hoặc
súng vào giường ngủ vì nghĩ rằng
vợ hoặc chồng sẽ giết họ,
hoặc sẽ có tình địch đến ngủ
chung với vợ hay chồng họ. Do quẫn
bách về tâm trí, và do cuộc sống quá mệt
mỏi, quá chán chường, một số người
đã đi tìm cái chết để kết liễu
cuộc đời.
Nhưng
nếu bình tĩnh phân tích một cách tỷ mỷ
về những trường hợp rạn nứt
và khủng hoảng trong hôn nhân, ta nhận thấy
có rất nhiều lầm lẫn thường
ngày trong đời sống hôn nhân giữa hai
vợ chồng đến từ những cái
nhỏ nhoi hầu như vô nghĩa. Thí dụ,
nồi cá kho mặn, hay bức tranh treo trên tường
cao hoặc thấp một chút!
Nồi
cá kho mặn có thể là hợp với khẩu
vị của người kho, hoặc cũng
có thể là hôm đó tra mắm, muối quá tay.
Cũng thế, bức tranh treo cao hơn một
chút có thể là người treo muốn cho cân
đối với toàn bộ những bức
tranh khác trong nhà. Hoặc có ý treo thấp xuống
một chút để người xem được
dịp thưởng thức những nét vẽ
tinh vi và sự hòa hợp mầu sắc tuyệt
đẹp của nó.
Điểm
căn bản ở nồi cá kho là sự quá
tay khi tra nấu, hoặc người nấu
có tính thích ăn mặn. Tương tự như
vậy, bức tranh treo cao hay treo thấp một
chút là do chủ ý người treo muốn đề
cao giá trị của bức tranh hoặc muốn
tìm sự cân đối, hòa hợp cho toàn bộ
khung cảnh trong nhà. Do đó, nếu chỉ
giải quyết vấn đề bằng cách
đặt ra những nghi vấn theo ý của
một người, mà không tìm hiểu lý do hành
động của người khác, có khác chi
đem những chuyện vô lý làm thành có lý để
cho đời sống hôn nhân ngày thêm mất hạnh
phúc. Nhưng chính do những cái nhỏ nhoi này
đã trở thành to tát đến nỗi có thể
làm hư hại, hoặc phá vỡ tòa nhà hạnh
phúc của nhiều cặp vợ chồng; nhất
là khi nó được tích tụ lại từ
nhiều ngày, nhiều tháng, hoặc nhiều
năm. Những cái mà theo Eric Berne diễn tả
trong Phân Tích Truyền Động (Transactional
Analysis), như những trò chơi người
ta chơi với nhau (games people play).
Theo
Hữu Lý Tình Cảm Trị Liệu (Rational Emotional
Therapy) của Albert Ellis thì mọi lời nói,
cử chỉ, và hành động của mỗi
người đều phát xuất từ một
hệ thống tin tưởng (Belief system). Nó
là những ý niệm cố định thường
được gắn liền với văn
hóa, tập quán và những nguyên tắc sống
của mỗi cá nhân, gia đình, một nhóm người,
hay cả một chủng tộc. Hệ thống
tin tưởng này được coi như những
gì Albert Ellis đã hoàn chỉnh, sau khi san định
và ứng dụng những tư tưởng
thuộc chiều sâu của tâm linh mà Sigmund Freud
đã khai triển khi nói về Siêu Ngã (Superego)
trong hệ thống phân tâm học. Theo đó,
con người được cấu tạo
trên ba căn bản chính: Id, Ego, và Superego.
-
Id: Tượng trưng cho bản năng con
người, hoàn toàn có tính cách sinh vật học,
và được hướng dẫn do bản
năng. Nó hình thành ngay trong những bước
đầu của cuộc sống một người.
-
Ego: Tượng trưng cho cái tôi - bản ngã
- con người tự nhiên. Cái tôi của người
này khác với cái tôi của người kia. Nó
phát hiện lúc em nhỏ được 6 tháng.
-
Superego: Tượng trưng cho khả năng
tâm linh và lý trí. Nó duy trì và chỉ huy sự quân
bình giữa những gì thuộc bản năng
và bản ngã của một người, ngay
từ khi một em bé được khoảng
3 hay 4 tuổi. Thí dụ, khi ta bị đói,
thì bản năng cho biết dạ dầy bị
cào cấu. Lý trí cho biết mình phải đi
tìm đồ ăn cho khỏi đói. Nhưng
tâm linh siêu hình cho biết mình phải dùng phương
pháp nào để tìm, và đồ ăn nào để
ăn cho xứng hợp và phải lẽ.
Do
sự giằng co và tranh chấp giữa bản
năng, tự nhiên, và tâm linh. Do sự điều
hợp thiếu chặt chẽ và nhịp nhàng
giữa ba căn bản trên mà con người
gặp phải những dồn nén, căng thẳng
và tâm bệnh.
Nhưng
cũng chính do khả năng mãnh liệt của
niềm tin khi đã cố định, mà con
người thường có ý nghĩ cho rằng
mình đúng, còn người khác sai. Trong đời
sống hôn nhân, nếu những tư tưởng
đó luôn diễn ra mỗi ngày, sẽ tạo
nên những cuộc cãi vã, tranh luận, và có khi
đưa tới ẩu đả giữa hai
vợ chồng. Một bên cho mình là đúng, còn
bên kia cho là sai. Cứ thế, những quan niệm
về đúng hay sai kia luôn luôn xoay quanh một
chủ đề là tư tưởng của
mình đúng, hợp thời, khách quan, và phải
được tôn trọng, chấp nhận.
Ngược lại, tư tưởng của
người khác là sai trái, bất định,
và cần phải loại bỏ.
Hãy
tạm giả thiết cho rằng người
vợ hoặc người chồng trong mọi
trường hợp đều là những người
bình thường, thiện chí, không có những
tình ý ngang trái và vụng trộm, phục thiện,
không có chủ ý xấu muốn làm hại vợ
hay chồng mình, muốn giải hòa, và muốn
dàn xếp ổn thỏa những tranh chấp,
những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng
hệ thống tin tưởng, hoặc có thể
nói thành kiến hay thiên kiến kia luôn là nguyên
nhân gây nên những hậu quả tương
phản.
Để
giải quyết những khó khăn trên, và để
đem lại mức sống tâm lý bình thường,
khoa tâm lý học có thể kê ra ít nhất 12 phương
pháp trị liệu, từ phương pháp Phân
Tâm của Sigmund Freud, đến các phương
pháp của các trường phái khác trong tâm lý
như Hướng Nhân Trị Liệu (Client
Centered Therapy) của Carl Rogers, hay Thực Tại
Trị Liệu (Reality Therapy) của William Glasser.
Mỗi phương pháp hoặc trường
phái đều nhấn mạnh đến một
khía cạnh bén nhậy, phức tạp và phong
phú của tâm lý của con người. Tuy nhiên
như đã đề cập từ đầu,
việc ứng dụng phương pháp Hữu
Lý Tình Cảm sẽ được đặc
biệt nhấn mạnh và khai triển trong sách
này.