HẠNH
PHÚC HÔN NHÂN THEO HỮU LÝ TÌNH CẢM
Nếu
tính tự trọng, tự tin, hay tự lập
có sức mạnh rất mãnh liệt trong những
quyết định và lối sống của
một người, thì khả năng đối
kháng của nó trước những va chạm
là động lực chính yếu có sức tàn
phá, hoặc hủy diệt ghê gớm về
mặt tâm lý. Nó có thể tạo nên những
bất hạnh lớn lao cho nhiều gia đình.
Ứng dụng những phân tích đó vào đời
sống hôn nhân, chính là hành động chuyển
hướng sức mạnh của nó thành những
yếu tố hữu ích mang lại hạnh phúc,
thay vì để nó hủy diệt hạnh phúc
mà ta đang có.
Để
xây dựng hạnh phúc hôn nhân, căn cứ vào
những phân tích và khám phá về tâm lý như đã
được đề cập đến
ở những chương trên, chính là thái độ
của người chồng hay người
vợ tự nhận ra những tư tưởng
kỳ quặc hoặc sự tin tưởng
sai lầm của mình để sửa sai. Vì
những ý nghĩ và sự tin tưởng đó
là căn nguyên sinh ra trăm thứ hiểu lầm,
lủng củng cho nhiều cặp vợ chồng.
Chính nó đã hướng dẫn ý chí, hành động
và ngôn ngữ của họ thành những chống
đối hoặc tự cô lập mình với
người chung quanh. Do đó, người chồng
hoặc người vợ chỉ là những
nạn nhân đáng thương hại. Trong những
trường hợp như thế, dù là người
chủ động hay nạn nhân, tất cả
đều sống trong đau khổ và bất
hạnh.
Khi
trình bày về phương pháp Hữu Lý Tình Cảm
Trị Liệu, Albert Ellis đã phân tích tâm lý
con người và cô đọng thành thuyết
ABC. Nó được giải thích đơn
sơ như sau:
-
A (mẫu tự đầu của chữ activating
agent, activity, action): Có nghĩa là những tác động
của một người. Tác động ở
đây bao gồm một cử chỉ, một
cái nhìn, một khoé mắt, một lời nói,
một hành động, hoặc bất cứ
biến cố nào trực tiếp hay gián tiếp
ảnh hưởng đến con người
từ bên ngoài hay bên trong cuộc sống. Nó cũng
nhằm diễn tả những hành động
của một người đối với
những người khác, mà họ nghe được,
thấy được, và cảm được.
-
B (mẫu tự đầu của chữ belief
system): Có nghĩa là hệ thống tin tưởng,
cách thức suy tư, lý luận, ý kiến, hay
sự xác tín của mỗi người. Đây
là sự tin tưởng của tri thức và
hiểu biết chứ không hẳn phải là
niềm tin tôn giáo, mặc dù niềm tin ở
tôn giáo cũng có tác dụng mạnh mẽ trong
cuộc sống của con người.
Hệ
thống tin tưởng ấy có thể là đúng,
hợp tình, hợp lý. Ngược lại, hệ
thống tin tưởng ấy có thể là sai,
vô lý, hay điên rồ, cuồng tín. Thí dụ
hành động phá thai, ly dị hiện nay đang
tạo nên những cuộc tranh chấp đôi
khi rất gay gắt giữa những người
tin rằng hành động phá thai và ly dị
là đúng, hoặc ngược lại, hành động
phá thai và ly dị là sai.
Đối
với những người ủng hộ, thì
việc người phụ nữ dùng quyền
tự do của mình để quyết định
nên phá hay không nên phá thai là một việc làm chính
đáng, và hợp pháp. Ngược lại, đối
với những người chống đối,
thì phá thai là một việc làm giết người,
vô lương tâm, và tội lỗi.
Một
cách tương tự, hành động ly dị
cũng đang được nhiều người
ủng hộ, hoặc chống đối.
-
C (mẫu tự đầu của chữ consequence):
Có nghĩa là hậu quả hay kết quả,
thành quả. Tùy theo mức độ và sắc
thái tin tưởng sẽ dẫn đến
những ý nghĩ hành động. Những quyết
tâm này lại được phong phú hoá nhờ
tự do và phán đoán riêng của từng người.
Từ đó, tuy cùng một vấn đền,
một sự việc nhưng mỗi người
có một phán đoán và cái nhìn khác nhau.
Tóm
lại, bất cứ hành động nào của
một cá nhân, một đoàn thể, hay một
dân tộc cũng đều được
lọc qua hệ thống tin tưởng, rồi
mới phát sinh ra những kết quả tương
ứng bằng hành động.
Với
cùng một tác động, nhưng tùy hệ
thống tin tưởng của người
tiếp nhận, hợp lý hay vô lý, kết quả
sẽ thuận lợi hay bất thuận lợi
cho chính họ và người chung quanh. Thí dụ,
cũng một cử chỉ nháy mắt, giữa
hai người bạn thân hoặc giữa hai
vợ chồng thường được
coi là một tín hiệu tốt, đồng ý,
hay khen thưởng. Nhưng những cái nháy
mắt giữa một người đàn ông
và người đàn bà chưa quen biết xẩy
ra tại một vũ trường, hay trong
một buổi dạ tiệc lại được
quan niệm là những cái liếc mắt đưa
tình hay tán tỉnh.
Những
phân tích này nhắm thẳng vào người có
vấn đề và những nạn nhân liên hệ
để tìm hiểu tận căn gốc những
rắc rối trước khi nó bùng nổ, phá
vỡ hạnh phúc hôn nhân. Trong nhiều trường
hợp, trước quyết định ly dị
không phải chỉ người vợ mà ngay
cả người chồng cũng cảm thấy
run rẩy, sợ hãi và hoảng hốt, mặc
dù trước đó họ cãi vã, chửi bới,
và đánh đập nhau đôi khi hung bạo,
tàn nhẫn. Nhiều người còn tỏ thái
độ hân hoan và vui mừng ngóng chờ để
được ly dị.
Nhưng
sau khi xé tờ giấy hôn thú xong, nhiều người
đã cảm được cái sai lầm của
hành động ly dị. Họ bắt đầu
nhìn lại quá khứ và chợt khám phá ra rằng
những sai trái, những thất trung, thất
tín của mình hay của người phối
ngẫu đã đến từ hậu quả
do những phán đoán sai lầm, thiếu hiểu
biết và thông cảm. Thái độ miễn
cưỡng chấp nhận này, theo những
nghiên cứu về đời sống tình cảm
và tâm lý của những người độc
thân sau khi đã ly dị cho biết, đời
sống họ - nhất là về phía đàn ông
- thường gặp nhiều bất ổn
về mặt tâm lý. Có lẽ vì vậy mà ngay
từ đầu, Thượng Đế đã
phán: “Đàn ông sống một mình không tốt”
(Gen 2:18).
Khám
phá những tiềm ẩn của hành động,
là để không kết án hành động một
cách vội vàng, thiếu chính xác, và thiếu thông
cảm. Trong nhiều trường hợp, chủ
ý tốt của một người bị hiểu
lầm, hoặc xuyên tạc, và vì thế tự
ái bị va chạm, kéo theo phản ứng của
hệ thống phòng vệ làm cho họ trở
thành yên trí, đôi khi cố chấp. Vì thế,
nếu vô tình sự kết án của ta va chạm
tới hệ thống tin tưởng và hành
động của người đó, hậu
quả sẽ trở thành trầm trọng, mặc
dù những việc làm bên ngoài chỉ là những
chuyện nhỏ nhoi, không đáng kể.
Tuy
nhiên, ta cũng không nên phủ nhận trách nhiệm
và những ràng buộc có tính cách luân lý, đạo
đức giữa những tương quan trong
đời sống hôn nhân. Đối với
những người chủ động trong
các cuộc chia rẽ hôn nhân, nhận thức
chung của mọi người vẫn cho rằng
đó là một việc làm thiếu lương
tâm và đạo đức. Chính người
đó đôi lúc có lẽ cũng cảm thấy
áy náy và hối hận! Sự cắn rứt
của lương tâm có thể phát sinh thành những
hậu quả đưa đến tâm bệnh,
hoặc ít nhất người nhận thấy
mình có tội, luôn luôn phải sống trong lo
âu, trốn tránh, hoặc giả tạo.
Đời
sống hôn nhân thường ngày vẫn thấy
có những câu chuyện xẩy ra, thí dụ một
người đàn ông bất chấp dư luận,
sẵn sàng từ bỏ gia tài, tiền bạc,
danh vọng, và cả vợ con để đi
theo một người đàn bà mà dưới
con mắt khách quan của nhiều người,
người đó thật sự thua kém người
vợ cũ của ông ta.
Người
ta cũng không dễ dàng giải thích một
cách thỏa đáng lý do về hiện tượng
một số phụ nữ mặc dù đã có
con, có cháu nhưng vẫn lén lút, vụng trộm
ái ân, tình cảm với những đàn ông khác.
Một số trường hợp còn nhẫn
tâm bỏ con bị đau ở nhà để
đi chơi với tình nhân, trước khi
phũ phàng bỏ chồng, bỏ con đi theo
tiếng gọi của ái tình mới.
Tại
sao nhiều thiếu nữ con nhà đàng hoàng,
tử tế, có tất cả những yếu
tố thành công và hạnh phúc, lại sẵn
sàng đi theo một người tội phạm
đang bị lùng bắt, chấp nhận mọi
đau khổ kể cả sự hất hủi
và hành hung của người đó? Tại sao
nhiều thanh thiếu niên bỏ nhà trốn học,
sống gian díu với những thành phần băng
đảng hoặc nghiện hút? Có thể là
do tình yêu đã thôi thúc họ làm những chuyện
mà người bình tĩnh, ngoài cuộc cho là
mù quáng như thế? Hay cũng có thể tin
rằng từ con người nào đó, có khả
năng chinh phục và thu hút niềm tin của
họ?
Nhưng
dù dưới bất cứ lối giải thích
nào, ta cũng khó lòng loại bỏ ảnh hưởng
của hệ thống tin tưởng cố
định của những nạn nhân đó
vào những người, hoặc những sự
việc mà họ đang tin tưởng. Sự
tin tưởng đó mạnh mẽ đến
độ lấn át cả những gì mà người
ngoài cuộc tin là không thể thực hiện
được.
Nếu
niềm tin ảnh hưởng cả một
tập thể, một dân tộc thì sức phản
kháng mãnh liệt của nó thật là ngoài sức
tưởng tượng của con người.
Đi vào với thực tế của dân tộc
Việt Nam suốt hàng ngàn năm qua, niềm
tin vào những giá trị đạo lý gia đình
mà ta gọi là Tam Cương, Ngũ Thường
đã gò ép và đè nén người đàn bà trong
một cuộc sống nhiều khi hết sức
bất công và tồi tệ. Với cái nhìn mới
mẻ của con người thời đại,
ta không thể hiểu được tại
sao những người đàn bà con gái đó
lại có thể sống và làm được
những hành động bình thường của
nghĩa vụ làm vợ và làm mẹ. Nguyên một
hành động như thế, cũng đủ
để ca tụng họ là những nữ
nhi anh hùng rồi!
Ngày
nay, hình ảnh những bà mẹ tại quê nhà
cũng vẫn là những hình ảnh của
con người lao nhọc và vất vả vì
chồng, vì con. Ca dao Việt Nam đã diễn
tả thái độ hy sinh đến quên mình
của họ như sau:
“Có
con phải khổ vì con,
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng
cay”.
Hình
ảnh đó, vẫn còn tìm thấy trong nhiều
gia đình Việt Nam trên những miền đất
tạm dung. Một hôm, một cặp vợ
chồng nọ được đưa tới
văn phòng tâm lý. Cả hai dưới 50 tuổi,
nhưng trông già hơn một cụ già 70 tuổi.
Áo quần nhem nhuốc, đầu tóc bù xù, móng
chân và móng tay không cắt tỉa. Toàn thân họ
phóng ra một mùi hôi nồng nực. Họ có
con, nhưng những người con đó đã
bỏ họ. Nguồn lợi chính của họ
là sống nhờ trợ cấp xã hội, tiền
vay mượn của chính phủ, và những
đồng tiền thu nhặt được
do bán giấy vụn hoặc ống lon. Trong
hoàn cảnh như vậy, chắc chắn là
họ phải thuê tạm một gian phòng rẻ
tiền trong một gia đình nào đó, hay có
thể họ phải ngủ trong một garage
được sửa chữa để làm
phòng ngủ. Trông hoàn cảnh của họ không
thể không xúc động.
Điều
gây xúc động nhất trong trường hợp
này là tình thương và sự chung thủy của
người vợ. Bà cho biết, người
chồng bị bệnh tâm lý của bà thường
xuyên đánh đập bà, đày đọa bà,
và nhiều lần lên cơn còn muốn giết
bà. Khi nói những điều đó, bà đã
khóc! Những giọt nước mắt của
bà minh chứng hoàn cảnh đau thương
của bà. Nhưng bà dường như không
nghĩ gì đến thân bà. Không một lời
nào bà đã nói hoặc xin xỏ sự giúp đỡ
cho chính bà. Chỉ thấy bà tha thiết tìm sự
giúp đỡ cho chồng bà. Dường như
bà cho rằng, nếu chồng bà được
giúp đỡ, chính là bà đã được
giúp đỡ vậy.
Hành
động của bà đáng thán phục. Sự
chịu đựng của bà còn đáng kính nể
hơn. Một sự chịu đựng nói
theo ngôn ngữ của những con người
thời đại là một hành động
ngu xuẩn, không cần thiết. Vì đối
với những người chồng như
chồng bà, làm gì có chỗ đứng trong nhiều
gia đình người Âu Mỹ hiện nay. Nhưng
bà là người Việt Nam. Ảnh hưởng
của nền luân lý gia đình, và với con
tim chân thành, nó đã đem lại cho bà sức
chịu đựng phi thường.
Tư
tưởng bảo thủ của một số
đông đàn ông Việt Nam cho tới nay là vẫn
muốn duy trì quan niệm"chồng chúa, vợ
tôi” - chồng là chủ, vợ chỉ là người
đầy tớ. Hoặc quan niệm cho rằng
“trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một
chồng” - người đàn ông có quyền
lấy nhiều vợ, nhưng người
con gái thì chỉ được lấy một
chồng. Hoặc quan niệm “nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô” - một đứa
con trai có giá trị hơn 10 đứa con gái.
Hoặc đề cao “chữ trinh đáng giá
ngàn vàng” ngụ ý bắt buộc người
đàn bà con gái phải trinh tiết cho đến
khi kết hôn, còn người con trai thì muốn
sao cũng được.
Trong
khi nhiều phụ nữ Việt Nam còn đang
phân vân và chiến đấu với tư tưởng
xã hội và nền luân lý của mình, thì ngược
lại, tại các nước Âu Mỹ, hiện
tượng xã hội ngày nay, do ảnh hưởng
của niềm tin tập thể hằng ngày
vẫn có hàng triệu các cặp trai gái sống
chung với nhau ngoài hôn nhân. Hàng trăm, hàng ngàn,
người mẹ vẫn tới các bệnh
viện hoặc phòng mạch tư để
phá thai. Hàng trăm, hàng ngàn cặp vợ chồng
dẫn nhau tới tòa thị chính hoặc các
văn phòng luật sự nộp đơn ly
dị. Hàng triệu người thuộc giới
đồng tính luyến ái vẫn hiên ngang sóng
vai nhau bước trên các đường phố.
Hàng trăm ngàn người khỏa thân trên các
bãi biển tắm truồng. Tất cả những
hình ảnh và lối sống này không thể chấp
nhận được đối với một
số người, nhưng lại được
coi là thích hợp với một số người.
Để
hóa giải những khủng hoảng về
niềm tin và những ảnh hưởng khác
nhau của hệ thống tư tưởng
thường dẫn đưa vợ chồng
đến chỗ xung đột và bất hoà,
những ứng dụng thực hành theo Albert
Ellis cũng mang ba chữ gồm DEF.
-
D (mẫu tự đầu của chữ debate):
Có nghĩa là bàn cãi hay tranh luận về một
vấn đề. Để làm sáng tỏ tính
chất khách quan của niềm tin hay thái độ
sống của hai vợ chồng, điều
cần thiết là phải trình bày những lý
do tiềm ẩn đang thôi thúc hoặc tác động
trong mỗi người.
Trong
thực tế, nhiều người chồng
hoặc vợ cứ lầm lầm, lỳ lỳ
giận dỗi, và khó chịu nhau vì cho rằng
vợ hay chồng không hiểu mình, nhưng lại
không nói một câu nào về mình và để cho
người khác hiểu. Họ thầm nghĩ
và kỳ vọng ở sự hiểu biết
hay đoán ý của nhau. Quan niệm sống này
không có tính cách thực tế và thông cảm. Để
hiểu người và để người
hiểu mình, cách tốt nhất vẫn là lắng
nghe người đó trình bày về họ, hoặc
nói cho họ biết những gì mình đang suy
nghĩ. Không trao đổi, không lắng nghe,
không bàn thảo sẽ không có sự hiểu biết
và thông cảm, dù là giữa hai vợ chồng.
Ứng
dụng trường hợp nồi cá kho mặn,
bức tranh treo cao hay thấp, hoặc trường
hợp của nhà văn Vũ Thanh Thủy, hành
động thông cảm chính là nói cho nhau nghe quan
điểm của mình về nồi cá bị
mặn. Hoặc lý do tại sao bức tranh không
được treo thấp hay treo cao hơn một
chút nữa. Cũng như tại sao hôm đó
đi chợ về mà không mua thuốc. Như
vậy, người nghe sẽ có cơ hội
phản ảnh tư tưởng của họ
về nồi cá, về vị thế bức
tranh, và về thói quen cũng như ảnh hưởng
của thuốc lá.
-
E (mẫu tự đầu của chữ effect):
Có nghĩa là kết quả thu nhặt được
từ những trao đổi và thông cảm.
Bàn luận trao đổi để rút ưu
và khuyết điểm, để tìm ra những
phương hướng mới nhằm canh
tân hoặc bổ túc cho vấn đề. Rồi
lại tiếp tục trao đổi, để
nhằm thăng hoa những kết quả của
thông cảm và hiểu biết.
-
F (mẫu tự đầu của chữ follow-up):
Có nghĩa là theo dõi và tiếp tục hành động.
Theo dõi ở đây không mang ý nghĩa vạch
lá tìm sâu, bới lông tìm vết, rình rập, hoặc
lén lút nhòm ngó. Thực tế đã có nhiều
người chồng thuê thám tử theo dõi vợ.
Một cách tương tự, nhiều người
vợ lén thu âm những cuộc nói chuyện
của chồng như những cảnh bố
ráp và rượt đuổi của các thám tử
trong xinê, vì họ tình nghi vợ hoặc chồng
họ không trung thành với họ.
Theo
dõi là việc làm sau cùng của hai tiến trình
bàn thảo và kết quả trên, với mục
đích kiếm tìm những giải pháp tốt
hơn để tiếp tục duy trì sự
hiểu biết và thông cảm với nhau trong
những khác biệt về tư tưởng
và hành động.
Áp
dụng vào thực tế, khi một cặp
vợ chồng gặp khủng hoảng, đang
trong tình trạng hôn nhân đổ vỡ, nếu
muốn hàn gắn trở lại, họ phải
có thời giờ bình tâm suy nghĩ và chấp
nhận mình là những nạn nhân của các
vấn đề xã hội và tâm lý. Họ phải
tự ý thức rằng những tư tưởng,
ngôn ngữ, và hành động của mình trong
thời gian đó là do kết quả của
hệ thống tin tưởng thiếu chính
xác, lệch lạc, và đôi khi bệnh hoạn.
Đồng thời, chấp nhận họ cần
được giúp đỡ.
BÌNH TĨNH
Điểm
khó khăn nhất trong việc hàn gắn những
khủng hoảng của đời sống
hôn nhân, là người trong cuộc phải bình
tĩnh để đón nhận sự giúp đỡ,
và sửa chữa. Bình tĩnh xét lại những
gì mình vẫn luôn tin tưởng, những gì
là tập quán trong cuộc sống của mình.
Bình tĩnh chấp nhận nguyên tắc khách
quan để dám nghi ngời rằng có thể
mình cũng có những tư tưởng, ước
muốn, và hành động sai trái ít ra là ở
một góc cạnh nào đó, hay ở một
phương diện nào đó.
Hoài
nghi mình trong trường hợp này, là hành động
tự xét, tự vấn, và chấp nhận sửa
đổi. Sau khi ý thức và nhận ra mình thực
sự có vấn đề, lúc đó sự giúp
đỡ của bên ngoài mới có tác dụng
tích cực. Trong thực tế, không mấy người,
nhất là trong những trường hợp
cãi vã, tranh tụng, hoặc chửi bới nhau,
lại nhận mình có lỗi, có vấn đề
cần được sửa sai và hướng
dẫn.
Lịch
sử triết học có nhắc lại câu chuyện
của thầy trò Socrate. Hai thầy trò tranh biện
với nhau suốt một ngày nhưng vẫn
không ai nhường nhịn ai. Thầy thì cho
là trò ngu. Ngược lại, trò cũng cho rằng
thầy là người ngu. Cả hai đều
cho mình là người khôn ngoan, và đối phương
là người dốt và ngu. Nhưng sau cùng, Socrate
đã nhượng bộ người học
trò của mình bằng một câu nói để
đời như sau: “Ừ! thì tao ngu mà mày cũng
ngu. Nhưng ít nữa là tao còn khá hơn mày, vì
tao biết là tao ngu”.
Đời
sống hằng ngày của nhiều cặp vợ
chồng cũng vẫn thường diễn
lại trò chơi lý thú này. Vợ cho là chồng
ngu, còn mình thì giỏi. Trái lại, chồng lại
cho là vợ ngu và mình là giỏi. Rốt cuộc
cả hai đều cùng ngu như nhau, vì là những
người không biết cái ngu của mình.
Những
cặp vợ chồng nào mà một trong hai người
sớm nhận ra được cái ngu của
mình, hoặc của người, thì sẽ đỡ
lục đục, tranh cãi, và bầu khí hạnh
phúc mới thấy xuất hiện.
THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGƯỜI
TRUNG GIAN
Trong
công việc làm ăn, buôn bán, hoặc những
sinh hoạt xã hội người Việt Nam
thường hay nói: “Thiên thời, địa
lợi, nhân hoà”. Người ta tin rằng để
thành công một việc gì dù to hay nhỏ, những
yếu tố thuận lợi từ phía Trời
đến phía người đều là những
điểm rất quan trọng.
Một
người dù tính toán giỏi mà công việc
không khởi công đúng nơi, đúng lúc; nhất
là không được sự giúp đỡ của
những người ủng hộ, và Trời
cao thì thất bại chắc chắn sẽ
nằm trong tầm tay.
Đời
sống hôn nhân cũng vậy, để đạt
được hạnh phúc là sự thành công,
vợ chồng cũng cần phải khéo léo
tùy thời, tùy hoàn cảnh, và tùy lúc cư xử
và hành động với nhau một cách tế
nhị và hòa thuận.
THỜI
GIAN:
Không
phải lúc nào người vợ hoặc người
chồng cũng đòi hỏi, cũng kèo nhèo,
cũng lớn tiếng bắt chồng hay vợ
mình phải sửa sai, phải bỏ tính xấu
này, tật xấu khác đều là những
khởi điểm tốt.
Có
những lúc khi nêu lên lời đề nghị
trên không làm cho người nghe từ chối,
nhưng cũng có những lúc mà ý kiến của
ta vừa nêu lên đã bị từ chối. Thí
dụ, sau một ngày làm việc mệt nhọc,
người vợ hoặc người chồng
vừa về đến nhà chưa kịp bước
ra khỏi xe, chưa kịp cởi đôi giầy
hay đôi guốc đã bị nghe vợ hay chồng
nói ra, nói vào về một vấn đề nào
đó. Những lúc như thế không phải
là thời cơ thuận lợi để nói
và để nghe những lời than thở,
phàn nàn, hoặc bẳn gắt.
Thời
gian tốt nhất để vợ chồng
trao đổi tâm sự với nhau là lúc hai người
một mình ngồi lại sau bữa ăn chiều,
hoặc những buổi tối khi con cái đã
lên giường ngủ. Những lúc đó, những
gì chồng nói với vợ, và những gì vợ
muốn nói với chồng sẽ dễ dàng
được lắng nghe hơn.
KHÔNG
GIAN:
Cũng
như yếu tố thời gian, yêu tố không
gian cũng chiếm phần quan trọng trong
việc làm thức tỉnh lương tâm hay
ý thức của một người. Có những
nơi chốn khi nêu lên lời đề nghị
sửa sai không làm va chạm tự ái người
nghe, ngược lại, cũng có những nơi
chốn dù vô tình hay hữu ý những đòi hỏi
đó được nhắc tới, lập
tức người nghe bị va chạm tự
ái. Thí dụ, người vợ chê bai chồng
mình trước đám đông bạn bè.
Giữa
đám đông người qua lại mà hò hét
chồng, hoặc cau có vợ là hành động
thiếu tế nhị và không khôn ngoan. Phản
ứng tâm lý chung của con người trong
những trường hợp đó luôn luôn là
một phản ứng tự vệ tiêu cực,
muốn tự bảo vệ mình trước.
Ngoài ra, ảnh hưởng của đám đông
quần chúng sẽ tạo thành một chất
kích thích, có khả năng làm bùng nổ ý nghĩ
tự vệ thành những hành động đôi
khi vượt quá sự kiểm soát của lý
trí. Trong trường hợp này, những ngôn
ngữ được dùng trao đổi với
nhau thường mang tính cách thách thức, tuyên
chiến, tạo sự căng thẳng, hơn
là những lời giải thích hoặc đề
nghị.
NGƯỜI
TRUNG GIAN:
Sau
cùng vai trò người hướng dẫn cũng
rất quan trọng. Nhiều người có
tư tưởng chấp nhận sửa sai
nhưng không được chỉ bảo một
cách hợp tình, hợp lý. Hoặc không gặp
được người tin tưởng,
hiểu biết để tâm sự. Ngược
lại, có những người sẵn sàng đi
cùng đường với những hành động
và tư tưởng mà họ biết là xấu
nếu tự ái bị va chạm, hoặc gặp
phải sự hướng dẫn sai lầm.
Đối
với phong tục và tập quán của người
Việt Nam, những người đóng vai trò
trung gian thường là ông bà, cha mẹ, cô chú,
hoặc bạn hữu hai bên. Nếu những
trường hợp giải quyết của
gia đình không đạt được kết
quả, nhiều người thường đến
với các vị lãnh đạo tinh thần thuộc
các tôn giáo.
Những
lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ và
họ hàng thân thuộc, thường hay bị
chi phối bởi thành kiến, bởi kinh nghiệm
riêng tư, hoặc nặng nề về lễ
giáo và truyền thống. Những lời khuyên
bảo của các vị lãnh đạo tinh thần,
tuy có những nét thanh cao hơn có thể làm thanh
thỏa sự dồn nén của lương
tâm, hoặc trả lời được một
số những khắc khoải của tinh thần,
nhưng thiếu tính chất thực tế của
cuộc sống. Trước những quan niệm
mới mẻ về hôn nhân, và trước những
phức tạp của đời sống hôn
nhân, một vai trò trung gian và hòa giải mới
ngày càng được chú ý là các nhà tâm lý học
và cố vấn gia đình.
Tại
các văn phòng tâm lý, những khó khăn và uẩn
khúc của đời sống hôn nhân sẽ được
phân tích và hướng dẫn bằng tính cách
chuyên nghiệp, theo những nguyên tắc khách
quan, và với sự khảo cứu, học
hỏi chuyên môn. Những hướng dẫn
này không dựa vào những phán đoán chủ
quan, kinh nghiệm cá nhân, hoặc theo một truyền
thống gò bó, nhưng là tổng hợp những
nghiên cứu mới mẻ và ứng dụng
thực hành của ngành tâm lý học. Ngoài khả
năng chuyên môn và những ràng buộc liên quan
đến luật pháp, đến những nguyên
tắc hành động, những kết quả
của các văn phòng này còn thường xuyên
được nghiên cứu và phân tích một
cách kỹ lưỡng.
Tóm
lại, khi hôn nhân gặp phải những khủng
hoảng và rạn nứt, hoặc trong lúc hạnh
phúc hôn nhân bị đe dọa, sự cố
vấn và những lời khuyên bảo của
những người trung gian là một điều
cần thiết. Tuy nhiên, việc chọn lựa
và xử dụng vai trò người hướng
dẫn cũng rất quan trọng, tùy thuộc
vào mỗi hoàn cảnh, và mỗi cá nhân. Nếu
không cẩn thận, sự chọn lựa này
sẽ đưa đến những hậu
quả tai hại, thay vì tạo điều kiện
để được hạnh phúc.
HỆ
THỐNG TỰ VỆ VÀ TỰ ÁI
Hệ
thống tự vệ và thái độ tự
tín của mỗi người, xét về phương
diện tiêu cực, chính là những ngãng trở
lớn lao nhất của đời sống
tâm linh, tâm lý, và tình cảm. Ảnh hưởng
của nó bao trùm cả đời sống cá
nhân và hôn nhân của con người. Để
giải tỏa và dung hòa hành động tự
ái, hoặc thái độ cuồng tín đó, phương
pháp tốt nhất vẫn là:
TÔN TRỌNG VÀ LẮNG NGHE MỘT
CÁCH CHÂN THÀNH
Chồng
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của vợ,
vợ lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
chồng.
Hệ
thống tự vệ và thái độ tự
tín của mỗi người giống như
một vệ tinh viễn thông và một chiếc
máy truyền hình. Tần số phát và nhận
phải cùng một tần số, nếu không
khi bật máy, người ta không nghe được
gì và cũng chẳng nhìn thấy gì, ngoài những
tiếng kêu rè rè, và những vệt sáng hoặc
đen chạy nhập nhằng trên màn ảnh.
Trong
khi vợ chồng nói chuyện hoặc trao đổi
tâm tình với nhau, tần số phát và tần
số nhận phải giống nhau mới tạo
được những âm thanh nhịp nhàng,
làm cho người nghe cảm thấy thích thú.
Trở
lại câu chuyện nồi cá kho mặn, hoặc
bức tranh treo cao hay thấp đã được
dùng làm thí dụ khi bàn về thái độ dồn
nén của một người trước những
sự việc mà người khác không hiểu
hoặc không muốn hiểu họ. Nếu tôi
hôm đó không tự ái một cách vô lý mà bình tĩnh
dò hỏi thái độ của vợ tôi. Và nếu
vợ tôi hôm đó không bị hệ thống
tự vệ làm cho bùng nổ lên những phản
ứng tiêu cực, chắc chắn sẽ không
có chuyện cãi vã xẩy ra. Hơn thế nữa,
tôi sẽ hiểu được lý do tại
sao vợ tôi tra mắm, muối quá tay. Nguyên nhân
có thể là nàng mỏi mệt, có thể vì nàng
đang mơ màng đến một bữa ăn
với món cá kho mà chồng nàng vẫn thích. Và
trong cái sung sướng tột cùng của một
người vợ thương chồng, muốn
dọn cho chồng bữa cơm ngon, và đã
cao hứng tra mắm, muối quá tay chăng?!
Và nếu đó là những nguyên nhân của nồi
cá kho mặn, thì tôi đâu có thể nào phiền
trách nàng một cách võ đoán và oan uổng như
tôi đã làm. Tôi đâu có lý do gì để phũ
phàng vùi dập tình yêu mà nàng dành cho tôi bằng
những lời lẽ chua cay, chửi bới,
hoặc thái độ quăng nồi cá vào sọt
rác.
Một
cách tương tự như thế, cặp
mắt nghệ thuật của người
vợ hay người chồng có thể có những
cái nhìn sắc sảo hơn, chính xác hơn về
một bức tranh. Như vậy, tại sao
cứ phải treo thấp xuống một chút,
hoặc treo cao hơn một chút mới vừa
bụng mình. Tại sao không lắng nghe, mà chỉ
biết ra lệnh.
Cũng
như câu chuyện trao đổi giữa hai
mẹ con của nhà văn Vũ Thanh Thủy,
ta cần tự hỏi, tại sao lại cứ
bẳn gắt, cứ lẩm bẩm, giận
dỗi, và nhất là miễn cưỡng làm
điều mình không muốn. Có cơ hội
nói ra để chia sẻ tại sao lại không
làm, để rồi khó chịu và khổ sở.
TỎ
ĐƯỢC THIỆN CHÍ MUỐN NGHE VÀ MUỐN
GIÚP ĐỠ
Nếu
có người nói, thì cũng phải có người
nghe. Trong gia đình, hai vợ chồng cùng nói
một lúc, thì sẽ chẳng có ai để
mà nghe. Hoặc cả hai chẳng ai thèm nói với
nhau câu nào, thì dù người chồng hoặc
người vợ muốn nghe cũng không có
ai nói để mà nghe. Điều này hay xẩy
ra khi vợ chồng giận hờn, bực
tức nhau. Ngược lại, khi có chuyện
cãi vã, vợ cũng như chồng ai cũng
giành nhau để nói. Kết quả là ai nói,
người đó nghe, hoặc nếu chồng
hay vợ không nghe, thì ông hay bà hàng xóm nghe.
Cách
nói chuyện hay nhất không hẳn là nói nhiều,
và hiểu biết nhiều, mà là biết nghe
và khích lệ người khác nói ra điều
họ đang muốn nói.
Trong
những cuộc trao đổi tư tưởng
giữa vợ chồng, nguyên tắc này vẫn
có một giá trị rất cao, nhất là khi
người vợ hoặc người chồng
thuộc loại người ít nói, hoặc không
phải là người kể chuyện hay. Những
trường hợp như vậy, thái độ
lắng nghe của ta không những làm yên tâm,
mà còn tăng thêm hứng khởi cho người
nói.
TẠO BẦU KHÍ THUẬN TIỆN
DỄ DÀMG BỘC LỘ
Để
vợ chồng có thể dễ dàng tâm sự
với nhau, sự chuẩn bị cũng là một
yếu tố cần thiết. Thí dụ, trong
ngày khi có thể, thỉnh thoảng gọi điện
thoại thăm hỏi vài câu. Khen và khích lệ
nhau những lời chân thành. Tỏ cho nhau biết
mình thực sự quan tâm và để ý đến
nhau.
Tình
yêu là một nghệ thuật, một nghệ
thuật ứng dụng vào đời sống
lứa đôi. Do đó, việc trau dồi nghệ
thuật này đòi hỏi những hành động
cụ thể. Một người không thể
nói tôi yêu vợ tôi, hoặc tôi yêu chồng tôi
mà không có những việc làm chứng minh tình
yêu đó. Tại sao tôi phải mở cửa
xe cho nàng? Hoặc tại sao tôi kéo ghế ngồi
cho nàng khi đi ăn tại một nhà hàng? Đó
chỉ là những dấu hiệu của tình
yêu được minh chứng bằng hành động.
Nhưng có lẽ ta thường chú trọng
vào những hành động này ở thời
kỳ còn quen nhau, hoặc còn là tình nhân với
nhau, để rồi coi thường giá trị
tình yêu được góm ghém trong những hành
động như thế sau khi đã thành vợ
chồng.
CỞI MỞ KHÔNG ĐÓNG KÍN DO PHẢN
ỨNG TỰ VỆ
Mỗi
người khi sinh vào đời, là coi như
bị đóng đanh vào cuộc sống và định
mệnh của mình. Trong cuộc sống này vui
ít mà buồn nhiều. Vậy nếu vợ chồng
không thông cảm, chia sẻ gánh nặng lẫn
với nhau, vô tình đã tạo cho nhau những
gánh nặng quá sức mỗi người có
thể chịu đựng.
Do
đó, nếu không làm nhẹ gánh nặng của
nhau, thì ít ra không nên để vì mình mà vợ
hoặc chồng phải đau khổ. Nhìn đời
bằng cặp mắt lạc quan, vui vẻ
là một hành động tâm lý làm nhẹ bớt
gánh nặng cuộc đời.
Hãy
tự nói với mình rằng, đời sống
con người chóng qua như ngọn cỏ,
nếu tôi không phàn nàn vì đã hoang phí nó vào những
cuộc vui chơi, hưởng thụ, thì cũng
không nên để mình phải hối hận
vì đã không biết xử dụng nó vào những
mục tiêu lành mạnh, và chính đáng. Và thử
hỏi, trên đời này còn gì lành mạnh và
chính đáng hơn là kiếm tìm và phát triển
hạnh phúc cho mình và cho người mình yêu?
Tóm
lại, để quân bình và hóa giải được
những dị biệt về niềm tin và thái
độ sống, không gì hơn là cảm thông,
trao đổi, và tìm hiểu. Trong lúc còn đang
yêu nhau, ít ai nhìn ra những khuyết điểm
của nhau. Và trong những trường hợp
như thế, nếu có một vài khuyết
điểm xuất hiện, tình yêu cũng sẽ
bao che và dễ dàng tha thứ. Ca dao Việt Nam
đã diễn tả tính chất vừa bao dung,
vừa mù quáng của tình yêu như sau:
“Yêu
nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.”
Nhưng
trong thực tế của cuộc sống thường
ngày, chỗ nào cao và chỗ nào thấp, chỗ
nào thẳng thắn và chỗ nào lệch lạc
đều bị phê phán một cách rõ ràng, đôi
khi khắt khe. Điều này xẩy ra khi mùi
vị tình yêu đã bắt đầu dịu
xuống, nhường chỗ cho cái nồng
nực của mùi vị tự ái. Và khi con mắt
thứ tha đã bắt đầu khép kín, nhường
chỗ cho con mắt xoi mói và giận hờn
mở rộng. Trong tình trạng như vậy,
ít ai cho rằng họ cần phải chấp
nhận để hoà đồng với những
quan niệm và lối sống khác biệt của
vợ hay chồng. Càng ít người biết
phân biệt hoặc chấp nhận những
quan niệm khác nhau về tâm tính và lối sống
của vợ hay chồng mình. Nhưng chính nhờ
những khác biệt đó, mà cuộc đời
hôn nhân mang nhiều khởi sắc.
Nhiều
cái ta tưởng như làm cho mình không hài lòng,
phải hy sinh và nhẫn nại chịu đựng.
Nhưng rồi nó lại trở thành giá trị
sau khi bị mất đi, và không có cơ hội
tìm lại nữa. Thí dụ:
-
Nếu bạn là người nói năng hoạt
bát, vui tính và thích truyện trò, vợ hoặc
chồng của bạn sẽ bảo bạn
là thứ đàn ông hay đàn bà vô duyên, lắm
điều.
-
Nếu bạn là người ít nói năng hoặc
nói năng vụng về, không thích chỗ đông
người, vợ hoặc chồng của
bạn sẽ bảo bạn là thứ đàn
ông hay đàn bà nhút nhát, ít mồm, ít miệng,
và không biết xã giao.
-
Nếu nền tài chánh trong gia đình không được
khá giả, vợ hoặc chồng của bạn
sẽ qui trách nhiệm cho bạn là người
thiếu óc kinh doanh, tháo vát, hoặc lười
lĩnh trong công việc làm ăn, buôn bán.
-
Nếu trong nhà có dư giả tiền bạc,
vợ hoặc chồng của bạn nhiều
khi lại nghi ngờ bạn làm ăn bất
chính, ham tiền, bỏ bê vợ, chồng, con
cái.
-
Nếu bạn để tâm săn sóc đến
sắc đẹp của bạn, vợ hoặc
chồng bạn sẽ cho bạn là thứ người
xe xua, lo chương diện, và đua đòi
với kẻ khác.
-
Nếu bạn không mấy quan tâm đến
sắc đẹp của bạn, vợ hoặc
chồng bạn sẽ cho bạn là thứ quê
mùa, cục mịch, không biết lối ăn
mặc hoặc chương diện.
-
Nếu bạn mua sắm chút đồ dùng trong
nhà, hoặc tiện nghi cho gia đình, vợ
hoặc chồng bạn thường hay khó chịu
và phê bình bạn là người tiêu xài hoang phí
tiền bạc của gia đình.
-
Nếu bạn không mua sắm hoặc lo tu bổ
nhà cửa, vườn tược, vợ hoặc
chồng bạn sẽ cho bạn là thứ người
bê bối, không biết lo việc nhà, việc
cửa.
-
Nếu bạn là người có tinh thần xã
hội, thích thăm nom, an ủi những người
đau khổ, gặp rủi ro, vợ hoặc
chồng bạn sẽ gọi bạn là thứ
người ưa ngồi lê, méch lẻo chuyện
hàng xóm: “Ăn cơm nhà đi vác ngà voi”.
-
Nếu bạn không đi đây, đi đó,
và cũng chẳng màng chi những chuyện ngoài
gia đình, vợ hoặc chồng bạn sẽ
cho rằng bạn là thứ người không
có tinh thần xã hội, không có lòng bác ái, vị
tha đối với những đau khổ
của người khác.
-
Nếu bạn là người thích dành thời
giờ để tâm sự với vợ hoặc
chồng bạn, chính họ lại thường
cho rằng bạn chỉ trẻ con, và mơ
mộng viễn vông không thực tế, làm mất
giờ của họ.
-
Nếu bạn là người không dành thời
giờ để tâm sự với vợ hoặc
chồng bạn, họ lại chê bạn là người
thiếu tế nhị, thiếu lãng mạn,
thiếu tinh tế với những cảm tình
giữa vợ chồng.
-
Nếu bạn là người đúng đắn
giờ giấc, vợ hoặc chồng bạn
sẽ cho rằng bạn lúc nào cũng vội
vàng, hấp tấp, đạo đức giả,
mô phạm rởm.
-
Nếu bạn là người không đúng giờ
giấc, vợ hoặc chồng bạn sẽ
phàn nàn rằng bạn là người lúc nào cũng
trễ hẹn, bê bối và làm cản trở
mọi công việc.
-
Nếu bạn là người chồng hoặc
vợ trẻ, vợ hoặc chồng bạn
sẽ cho rằng bạn thiếu kinh nghiệm
trong đời sống hôn nhân.
-
Nếu bạn là người chồng hoặc
vợ già, vợ hoặc chồng bạn sẽ
cho rằng bạn thuộc lớp người
cổ lỗ và không xứng hợp với họ.
Nhưng
nếu bạn chết rồi, lúc đó vợ
hoặc chồng bạn lại nhắc nhở
tới bạn, gọi bạn là cố tri, là
người yêu lý tưởng. Chỉ tiếc
rằng bạn đâu còn nghe được
những lời ai oán, nỉ non như thế
nữa. Và nếu có nghe được, thì cũng
chẳng giúp gì cho bạn và người đó.
Trong
một đám tang, người thân và bạn
hữu hết sức xúc động khi thấy
một quả phụ khóc lóc, vật vã muốn
lăn xuống huyệt mộ với chồng
bà. Xem ra chỉ có cái chết mới làm bà thỏa
mãn được những yêu thương, nhớ
nhung của bà đối với người
chồng quá cố. Không những thế, sau khi
chồng bà chết, mọi người chung
quanh đều nhận thấy một sự
thay đổi rất khác thường của
bà. Bà như ngớ ngẩn, và luôn luôn nhắc
đến chồng, gọi tên chồng ngay cả
trong những giấc ngủ chập chờn.
Nhiều người biết chuyện đã
xẩy ra trước cái chết của chồng
bà, thì lại hồ nghi những giọt nước
mắt và những thống khổ của bà.
Những
ai từng quen biết chồng bà đều
cho rằng do sự dằn vặt và chịu
đựng những vô tình, bạc nghĩa của
vợ, ông đã bị đau tim rất nặng.
Để canh chừng những bất trắc
có thể xẩy ra mà có ảnh hưởng đến
tính mạng của mình, chồng bà đã phải
mang máy trợ tim và sắm cho bà một chiếc
pager, hy vọng có thể liên lạc được
với vợ mỗi khi bà ra khỏi nhà.
Rồi
một hôm, trong khi bà đang vui với những
thú vui riêng ở xa nhà, chồng bà lên cơn đau
tim. Ông đã vội vàng page cho bà nhiều lần.
Nhưng mỗi lần gọi là mỗi lần
thất vọng. Vợ ông đã không trả
lời ông. Ông không biết vợ mình lúc đó
đang ở đâu, làm gì. Cơn đau càng lúc
càng trở thành dồn dập, cộng thêm với
những uẩn ức của tâm hồn, và ông
đã trút hơi thở ngay sau đó.
Rồi
vợ ông cũng đã về. Nhưng không phải
là về để giúp ông, hoặc để
chửi ông đã cản trở cuộc vui của
mình. Bà đã về để nhìn thấy xác
chồng lạnh ngắt, co quắp trên chiếc
xalông ở ngoài phòng khách. Mắt vẫn mở
to như nhìn theo một bóng hình ai đó đang
từ xa bước tới, và trong dáng dấp
chờ đợi một người!!!