Suy niệm của Huệ Minh
Chúa nhật 13 thường niên, năm A
Chúa Nhật 13a Quanh Năm A-2023
St 4:8-11,14-16; Tv 89:2-3,16-17,18-19; Rm 6:3-4,8-11; Mt 10:37-42
Vác thập giá
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn cuối cùng. Nhưng đoạn này là một tổng hợp nhiều lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau, được gom lại, vì thế không ăn khớp với nhau cho lắm, nhưng mỗi lời Chúa nói đều là những bài học cho chúng ta.
“Ai yêu mến cha mẹ… con cái hơn Thầy, người ấy không xứng đáng với Thầy”. Chúa muốn cho thấy rằng người môn đệ của Ngài phải dành trọn tình yêu của mình cho Ngài. Ngài phải là trung tâm của cuộc sống. Không thể so sánh với một ai ở trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Chúng ta đọc đi đọc lại câu nói đó rất nhiều lần, nhưng chúng ta có để ý đến đó không? Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào? Khi yêu nhau, chúng ta luôn nhớ nhau, nhớ không phút nào ngơi, lòng trí chúng ta luôn hướng tới người yêu. Yêu mến Chúa hết lòng thì lòng trí chúng ta chỉ nghĩ đến một mình Chúa. Chúa trở thành niềm thương nhớ không nguôi của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ, làm gì cũng nhớ. Tình yêu của chúng ta được đo bằng thương nhớ. Chúng ta có nhớ Chúa không?
Yêu mến Chúa hết sức là gì? Nhìn vào thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy ngài yêu mến như thế nào. Ngài đã không ngơi nghỉ, loan báo Chúa Giêsu cho mọi người không mỏi mệt. Ngài chỉ sống cho một mình Chúa. Chúng ta không rao giảng như ngài, nhưng nếu chúng ta yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ làm gì cũng làm cho Chúa, làm vì yêu mến Chúa chứ không chỉ làm việc vì tiền, vì lợi lộc. Dùng tất cả sức lực để làm cho Chúa được yêu thương hơn.
Chúa không cấm chúng ta yêu thương con cái, bạn bè, trái lại Ngài dạy chúng ta phải yêu thương nhau nhưng không thể yêu hơn Chúa. Ngài phải là ưu tiên tuyệt đối. Tình yêu loài người chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, tình yêu Chúa luôn bền vững muôn năm. Không thể nào so sánh Thiên Chúa với con người. Thế nhưng, chúng ta có yêu mến Chúa không? Chúa đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, không phải vì Ngài cần tình yêu của chúng ta. Tình yêu của chúng ta có lợi gì cho Chúa đâu! Chỉ vì Ngài quá yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chỉ có Ngài mới giúp chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thật, hạnh phúc muôn đời.
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”
Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại”
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Chúa Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả.
Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”.
Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật”
Theo Chúa ở đây không chỉ có nghĩa là đi tu hay vào chủng viện, mà còn phải hiểu là sống theo những đòi hỏi của Ngài, là thực hiện những điều Ngài truyền dạy. Đòi hỏi ấy phải vượt lên trên tất cả mọi thứ đòi hỏi khác. Không phải vì Chúa Giêsu là một con người độc đoán, mà bởi vì Ngài biết rõ Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hẳn rằng mỗi người chúng ta cũng có dịp sống qua những lựa chọn này. Huệ Minh 2023
ĐỪNG CỨNG LÒNG NỮA – NHƯNG HÃY TIN
Lễ thánh Toma Tông đồ, 3 tháng 7
Sau cuộc thương khó của Chúa Giêsu, các tông đồ buồn sầu, riêng ông Tôma thất vọng tê tái, ông tách mình ra khỏi nhóm anh em tông đồ, gặm nhấm nỗi buồn một mình đơn lẻ. Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, không có ông Tôma ở đó. Các môn đệ thuật lại : “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Ông đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Câu nói của ông Tôma làm cho các anh em khác bất ngờ vì sự cứng lòng của ông. Nhưng câu nói ấy lại giúp chúng ta có thể nảy sinh xác tín ở một góc nhìn khác. Đối với các môn đệ, từ trước cho đến bây giờ, việc nhận ra Chúa là được thấy Ngài.
Nhưng, từ nay việc nhận diện ra Chúa Giêsu không còn là thấy ngài nữa, mà nhận ra Ngài nhờ chạm vào các vết thương của Ngài. Khi chạm vào các vết thương đó, chắc chắn chúng ta cảm nghiệm được Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào. Từ đây, dấu hiệu hùng hồn nhất mà nhân loại nói về căn cước của Chúa Giêsu, đó chính là các vết thương mà Chúa Giêsu đã chịu từ cuộc thương khó của Ngài vì yêu thương nhân loại.
Thường khi nói tới ông Tôma, mọi người nghĩ ngay tới người môn đệ cứng lòng tin. Sở dĩ, người ta nghĩ như vậy, là vì vị Tông Đồ này đã nhất quyết không chịu tin Thầy mình là Đức Giêsu sống lại và hiện ra với nhóm Mười Hai, cho dù tất cả Tông Đồ đoàn đều khẳng định như thế. Lý do mà vị Tông Đồ này đưa ra là: “Vì tôi chưa thấy nên tôi chưa tin”.
Tôma không phải là người trung lập. Ông có một lập trường rất rõ rệt. Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích. Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa không thích thái độ dở dở ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.
Chúng ta có thể thông cảm cho Tôma, vì vào thời bấy giờ, những khái niệm như: Kẻ chết sống lại, Phục Sinh… là một điều quá xa lạ đối với người đương thời. Chúng ta đừng đòi hỏi Tôma phải có một đức tin chắc chắn về việc thân xác sống lại như chúng ta ngày hôm nay. Chính các Tông Đồ cũng chỉ có thể hiểu được màu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại và Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Điểm tiếp theo, nếu chúng ta chỉ gán Tôma với danh hiệu “Vị Tông Đồ cứng tin” thì e rằng hơi oan uổng cho ngài. Chúng ta biết rằng, chính vì việc không tin của Tôma mà Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết một điều quan trọng, một mối phúc mới, đó là: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Hơn thế nữa, chúng ta nhận thấy ở đây có sự tiến triển vượt bậc về cách nhận biết Đức Giêsu của ông Tôma. Từ chỗ không tin Đức Giêsu đã sống lại thật, ông đã đi đến chỗ tin nhận Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa” - một cách hiểu hoàn toàn mới mẻ đối với ngay cả các Tông Đồ. Đến như Phêrô cũng chỉ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, trong khi Tôma lại tuyên xưng Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa”.
Niềm tin cần phải được kiểm chứng, đó cũng là thái độ của con người ngày hôm nay. Có lẽ do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, nên người ta đòi mọi sự đều phải được kiểm chứng, phải được cân đong đo đếm. Thế nhưng, họ không biết được rằng, trong cuộc sống, không phải bất cứ thứ gì cũng có thể chứng minh một cách rạch ròi, đó là chưa kể đến những lãnh vực nhạy cảm như: tình cảm, tình yêu, sự hy sinh, lòng vị tha, sự quảng đại…
Niềm tin vào Chúa phục Sinh đã giúp ông biến đổi cuộc đời. Từ việc ông đòi hỏi phải được nhìn thấy bằng mắt, phải sờ được bằng đôi tay, thì giờ đây, bằng đôi mắt của đức tin và sự cảm nghiệm thiêng liêng, ông đã trở nên một Tông Đồ nhiệt thành cho Chúa. Tương truyền rằng, ngài đã đi sang tận miền Ấn Độ xa xôi để truyền giảng Tin Mừng ơn cứu độ và chịu tử đạo ở đó.
Khi chiêm ngắm đời sống và gương sáng của thánh nhân, chúng ta có dịp nhìn lại đức tin của chúng ta. Kể từ khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được gọi là người Kitô hữu (người có Chúa Kitô), hay người tín hữu (người tin vào Chúa Kitô), đáng lý ra, chúng ta là những người được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu như lời Ngài nói trong Bài Tin Mừng hôm nay: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Thế nhưng thử hỏi, chúng ta đã và đang thực hành niềm tin đó ra sao?
Chúng ta hạnh phúc hơn Tôma, bởi vì mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta không chỉ được đụng, được chạm, mà còn được đón Chúa ngự vào trong tâm hồn chúng ta, nhưng, mấy người cảm nghiệm được sự hiện diện đích thực của Chúa?
Con người của Tôma là thế. Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi. Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.
Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta những lúc đức tin mờ tối, những lúc ấy chúng ta muốn được chạm vào Chúa, chúng ta muốn Chúa hiện diện tỏ tường. Ước gì chúng ta cũng xứng đáng được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu nói với ông Tôma hôm nay : “Phúc cho những ai không thấy mà tin !” Ước gì mỗi ngày sống, khi vác thánh giá đời mình, chúng ta cũng nên một với Chúa. Ước gì mỗi lần đức tin lung lay cũng là mỗi lần chúng ta tuyên xưng “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. By Huệ Minh
Thứ Ba trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 19:15-29; Tv 26:2-3,9-10,11-12; Mt 8:23-27
Xin cứu chúng con
Cuộc đời mỗi chúng ta trên hành trình trần gian này được ví như con thuyền trên biển sóng. Biển lúc nào cũng có sóng, lúc nhẹ nhàng êm ả hiền lành, nhưng cũng có lúc sóng dữ làm chao đảo, muốn nhận chìm cả thuyền. Những con sóng ngoài thuyền như sự dữ bên ngoài ta, nhưng nếu chúng ta tin tưởng vào sức mạnh tình thương và quyền năng Chúa thì không có gì đáng sợ. Nếu không tin tưởng vào Chúa, thì con thuyền đời ta dễ dàng bị sóng đánh vỡ.
Nếu chúng ta không bảo vệ con thuyền bằng đức tin, thì có khác gì ta tự đâm thủng thuyền mình cho sự dữ tràn vào, tự mình đánh mất mình trên biển đời dương thế. Lúc ấy, không phải “con thuyền không bến”, nhưng “có bến, mà không còn thuyền nữa để mà về”.
Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài xuống thuyền ra khơi thì gặp lúc biển động dữ dội, làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Thật ra, đây là những gian nan thử thách xảy đến để các ông ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời phải biết đặt niềm trông cậy vào Chúa. Mặc dù hầu hết các Tông đồ là những dân chài có nhiều kinh nghiệm, nhưng khi đứng trước cơn bão lớn, gió mạnh đã làm cho các ông sợ hãi và các ông đã kêu cầu đến Chúa: “Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con, kẻo chúng con chết mất”. Nhờ vào sự trông cậy đó mà các ông được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Đời người được ví như một chuyến hải hành đi về miền Đất Hứa. Nhưng chuyến hải hành này không bao giờ phẳng lặng từ khi khởi hành cho đến lúc kết thúc hành trình trên “đại dương cuộc đời”.
Thiên Chúa có chương trình dành riêng cho con người, theo như cách thế của Người; mà con người không sao hiểu thấu. Người đã cho phép những nghịch cảnh, những bất trắc, những khó khăn hiểm nguy, những biến động của thiên nhiên… thậm chí cả sự chết; được quyền xảy ra trong cuộc sống của con người, để thức tỉnh con người trở về với Đấng là Khởi Nguyên và cũng là Cùng Đích của mọi sự.
Qua đó, con người ý thức được sự yếu đuối, mỏng dòn, và có giới hạn của mình. Đồng thời, cho con người ý thức sự hiện hữu của Thiên Chúa, ý thức về tình thương, và sự quan phòng của Ngài vẫn tồn tại từ muôn đời nay. Rồi từ đó, giúp con người biết đặt niềm trông cậy, vững tin, phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa định liệu và an bài.
Hãy tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa. Đừng kém tin hay ngờ vực sự hiện diện của Chúa, mà thất vọng trước những thách đố là đau khổ, bệnh tật hay thất bại trong đời. Hãy nhớ rằng Chúa luôn hiện diện, đồng hành, can thiệp và giải cứu chúng ta khỏi sự dữ trên hành trình vượt biển trần gian về đến bến bờ là Nước Thiên Chúa. Đừng tưởng lầm Chúa không quan tâm. Đừng tưởng là vắng bóng Chúa. Đừng tưởng lầm Người đang ngủ quên. Chúa vẫn luôn ở bên ta. Hãy vững lòng tin, lòng cậy, lòng mến. Điều đáng lo ngại là chúng ta thiếu lòng Tin Cậy Mến Chúa. Và đáng trách nhất là chúng ta bằng lòng cuốn mình theo sự dữ, theo điều bất chính, tự đâm thủng con thuyền mình để cho sự dữ tràn vào và chết chìm trong hành trình vượt biển.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta cần phải có thái độ như các Tông đồ xưa khi chúng ta gặp phải những gian nan thử thách, đó là: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con”. Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống hằng ngày, để chúng ta ý thức rằng chúng ta luôn cần đến Chúa. By Huệ Minh
Thứ Tư trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 21:5,8-20; Tv 34:7-8,10-11,12-13; Mt 8:28-34
Ơn giải thoát
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại là Ghêrasa. Sức mạnh của quỷ dữ thật lớn, nhưng Chúa Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỷ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người: dân chúng chạy ra xem và yêu cầu Ngài rời khỏi xứ sở họ, một phần vì sợ uy quyền Chúa đã trừ ma quỷ dữ tợn, phần khác cũng vì sợ bị thiệt hại vật chất.
Phép lạ vừa được kể lại cho chúng ta có thể bị chúng ta coi như hơi kỳ quặc. Lúc ấy Chúa Giêsu muốn giải thoát cho hai người bị quỷ ám. Hai người này đã khuấy động đời sống dân làng vì không ai dám lại gần họ và qua lại lối ấy. Thật là ý tưởng ngộ nghĩnh khi cho bọn quỷ nhập vào bầy heo và khiến chúng lao xuống biển! Chẳng lẽ Chúa Giêsu không có thể làm cách khác sao? Tại sao Chúa đã không đơn giản ra lệnh cho các thần ô uế buộc chúng phải cút đi ngay? Khi cho quỷ nhập vào bầy heo. Người đã làm cho dân chúng nơi đó phải sợ hãi. Những người chủ bầy heo hẳn đã phát điên lên khi nhìn đoàn vật chết chìm dưới biển. Kết cục là họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với những người đã bị đạo binh của thần ô uế chiếm hữu. Sức mạnh phá hủy của những thần dữ này là bằng chứng cho tất cả mọi người có thể nhìn thấy khi chúng chạy trốn và tiêu diệt đàn heo. Sau khi Chúa Giêsu chữa lành người bị quỷ ám, cả thành phố ra gặp gỡ Người. Không ai giải thích được uy quyền của Chúa Giêsu khi Người chống lại lực lượng của Satan. Kết quả, họ đâm ra sợ hãi Chúa Giêsu, và xin Người rời khỏi họ. Tại sao họ không muốn Chúa Giêsu ở lại? Có lẽ cái giá cho sự tự do thoát khỏi sức mạnh của ma quỷ như thế nhiều hơn những gì họ muốn trả.
Chúa Giêsu đã đến với con người. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Thái độ dân miền Ghêrasa cho ta thấy thêm được rằng không phải Chúa Giêsu lúc nào cũng đáng yêu và được người ta thích đến gần đâu. Có nhiều lúc người ta thấy Chúa đáng sợ và người ta không muốn Chúa đến gần mình. Nhất là khi Chúa đòi người ta phải từ bỏ, khi Ngài muốn trục xuất một tên quỷ dữ thường trú bấy lâu nay ra khỏi người ta. Tôi tự hỏi: hiện giờ đối với tôi Chúa đáng yêu hay đáng sợ ? Tôi muốn Chúa đến với tôi hay tôi xin Ngài tránh xa tôi ?
Mẫu người thứ hai là dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi, nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ chữa lành hai người bị quỉ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỉ nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Theo thần học và giáo huấn của Hội thánh thì quỷ Satan là một thiên thần Thiên Chúa tạo dựng. Lúc đầu, Satan là một thiên thần tốt lành, nhưng sau đó nó sa ngã vì tính kiêu ngạo, bất tuân phục đối với Chúa và đã bị Thiên Chúa tống xuống hỏa ngục. Quỷ Satan tìm mọi cách để quyến rũ con người xa lìa và chống lại Thiên Chúa, nhưng chính nó đã lôi kéo nguyên tổ chúng ta là ông Adong và bà Evà. Những quyền năng của quỷ Satan không phải là vô hạn, vì nó cũng chỉ là một loài thụ tạo từ Thiên Chúa mà ra, nó không thể chiến thắng Thiên Chúa để làm chủ thế gian và ngăn chặn việc xây dựng Nước trời. Mặc dù Satan hoành hành, thù nghịch với Thiên Chúa, và mặc dù nó đã gây ra nhiều tai hại cho con người và xã hội, nhưng nó đã bị đánh bại ngay từ thuở ban đầu như đã được mạc khải trong sách Sáng thế hay trong thư thứ nhất của thánh Gioan. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
Dù cho quyền năng của Thiên Chúa có hoàn toàn chiến thắng thế lực của ma quỷ, thì Ngài cũng đành bó tay trước sự tự do của con người. Cả dân chúng miền Ghêrasa đến đón Chúa Giêsu, nhưng không phải để đón tiếp mà để xin Ngài đi nơi khác. Con người nhẫn tâm chối từ Thiên Chúa, vì con người còn quyến luyến của cải, còn tiếc rẻ miếng mồi ngon của quỷ dữ. Họ sợ phải hy sinh, Chúa Giêsu còn ở đàng xa mà họ đã mất đàn heo, thì một khi Ngài ở gần họ, có lẽ họ sẽ phải mất tất cả.
Ngày xưa quỷ trong bài Tin Mừng đã đẩy hai người vào sống trong ngôi mộ của người chết. Ngày nay quỷ ở với những người sống trong nền văn hóa sự chết như phá thai, nghiện tình dục, rượu bia, bạo lực... Ngày xưa quỷ xúi dục dân chúng mời Chúa rời khỏi vùng đất mình vì mất đàn heo. Ngày nay quỷ hoành hành trong tâm hồn người chuộng tiền bạc, sổ đỏ, tài khoản ngân hàng hơn tình nghĩa cha mẹ, anh em, bạn bè, nhất là việc thờ phượng Thiên Chúa, thậm chí dần dần loại Ngài ra khỏi đời sống. by Huệ Minh
Thứ Năm trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 22:1-19; Tv 115:1-2,3-4,5-6,8-9; Mt 9:1-8
Sống Niềm Tin
Chứng bệnh bại liệt tuy không ghê sợ như bệnh phong hủi, nhưng nó cũng là đáng sợ, khi làm cho người bệnh tê liệt, không còn khả năng tự mình hoạt động như mình muốn. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta một bài học thật cảm kích: tấm lòng nhân ái của những người khiêng bệnh nhân đến với Chúa Giê-su, tình thương của họ đã bù đắp những khiếm khuyết nơi người bại liệt và nhờ đó anh ta đã đến được với Chúa Giê-su và được chữa lành.
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mát-thêu tường trình lại sự việc Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh bại liệt. Phép lạ được Chúa thực hiện qua lòng tin mạnh mẽ của người bệnh cũng như những kẻ đã khiêng bệnh nhân này đến với Chúa. Nhưng ngoài việc chữa lành bệnh tật nơi thân xác. Chúa Giêsu còn hướng lòng trí mọi người lên tầm cao hơn. Đó là Người còn có quyền phép chữa bệnh tật tâm hồn và quyền năng tha thứ những tội lỗi trên mọi con người.
Cách đối xử của Chúa Giêsu với những người tội lỗi làm cho các Kinh sư tức tối. Khi người ta mang đến cho Chúa Giêsu một người què bởi lòng tin của bạn bè, Chúa Giêsu đã làm một điều thật ấn tượng. Trước hết, Người tha thứ tội lỗi cho anh ta. Các kinh sư coi điều này như là sự phạm thượng, bởi vì họ biết rằng chỉ duy có mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ tội lỗi, và cất đi gánh nặng tội lỗi của họ. Chúa Giêsu xác nhận uy quyền mà chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể ban. Chúa Giêsu không chỉ chứng thật uy quyền của Người đến từ Thiên Chúa, Người còn bày tỏ quyền lực cao cả của tình yêu và lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa bằng cách chữa lành cho anh què khỏi đau khổ về phần xác. Người này không chỉ què về phần thể lý, nhưng phần thiêng liêng cũng vậy. Chúa Giêsu giải thoát cho anh khỏi gánh nặng của tội lỗi, và phục hồi sức khỏe cho thân xác anh.
Ngày nay, bại liệt hầu như không còn là một chứng bệnh hiểm nghèo: người ta được tiêm chủng phòng ngừa ngay khi còn là trẻ sơ sinh. Thế nhưng, chứng bại liệt tinh thần vẫn còn là một căn bệnh đáng sợ, khi mà con người ngày nay dễ dàng mất đi khả năng phân định tốt xấu, không đủ sức mạnh để chọn lựa, bênh vực cho chân lý và sự thật, kéo theo biết bao vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, hối lộ, nạo phá thai, ăn chơi truỵ lạc… Bao kế hoạch hành động chỉ là “phong trào” nếu không trị tận căn chứng bại liệt tinh thần này.
Điểm mấu chốt cho sự việc phép lạ được Chúa thực hiên, trước tiên đòi hỏi người ta phải có lòng tin nơi Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu làm các phép lạ dựa vào niềm tin của người đến xin Ngài. Do đó, Chúa thường nói trước khi Ngài thực hiện phép lạ là: “lòng tin của anh đã cứu anh”. Hôm nay cũng thế: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: Này con, cứ\yên tâm, con đã được tha tội rồi…”
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta, càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có mục đích chỉ cho ta thấy Chúa Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích đoạn Tin Mừng hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Như vậy, nếu chúng ta muốn được Chúa Cứu chuộc và tha thứ những tội lỗi trước hết chúng ta phải đặt niềm tin trọn vẹn và tuyệt đối nơi Thiên Chúa, bởi chỉ có Ngài mới có quyền tha thứ và chữa lành bệnh tật hồn xác cho chúng ta mà thôi!
Thực ra trước mắt chúng ta, hàng ngày vẫn xảy ra bao điều kỳ diệu mà chúng ta có thể coi như phép lạ. Đó là những trật tự lạ lùng trong vũ trụ; Gió mưa, sấm sét… hay như ngay trong thân thể của chúng ta đang diễn ra bao điều lạ lùng mà chúng ta không không thể hiểu thấu được. Từ việc tuần hoàn của máu và sự hấp thụ tiêu hóa… Tất cả những việc đó xảy ra đều do sự an bài, quan phòng, điều khiển của Thiên Chúa! By Huệ Minh
Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 23:1-4,19; Tv 106:1-2,3-4,4-5; Mt 9:9-13
Cuộc gặp gỡ lạ lùng
Chính thánh Mátthêu, là người thu thuế, đã thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi ông làm môn đệ Ngài. Tuy là người tội lỗi, khi được Chúa kêu gọi ông đã đi theo Ngài không chút do dự. Việc gọi Mátthêu và việc Chúa Giêsu ăn uống đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, cho thấy Ngài tỏ lòng ưu ái đối với họ. Những người Biệt phái thắc mắc và chỉ trích Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã trả lời bằng cách nêu rõ sứ mệnh của Ngài là sứ mệnh của một Lương y, một vị Mục tử nhân hiền, luôn yêu thương săn sóc những con chiên đau ốm và bị thương.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giê su gọi Thánh Mátthêu, một người thu thuế, bị người đời khinh ghét, nhưng lại được Chúa Giêsu chọn làm tông đồ. Thanh danh những người thu thuế đang bị “khinh khi”, vì họ cộng tác với người La mã, và làm giàu trên xương máu của dân nghèo. Hạng người này thông thường khá giàu có...
Giờ đây, Chúa Giêsu lại kêu gọi một người trong bọn họ, mà ai cũng nghi ngại, để bổ sung cho nhóm dân chài bên bờ hồ đã được kêu gọi. Người đang thành lập một nhóm khá ‘li kỳ’. Dầu sao, thì truyền thống vẫn cho Mát-thêu là tác giả Tin Mừng thứ nhất. Khi Chúa Giêsu bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. Hình như ngay tức khắc, không chút trì hoãn, ông đã từ bỏ tất cả. Thật là quá mạo hiểm đối với một người giàu có! Nhưng muốn theo Chúa Giêsu, người ta phải ‘mạo hiểm thế đó’. Chẳng bao giờ có gì là “đảm bảo an toàn” 100% đâu! Bao giờ cũng phải có phần ‘liều lĩnh’ đấy! “Các bạn trẻ muốn đi theo ‘ơn gọi’ phải nhớ điều này nhé!”
Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã làm một chuyện có vẻ rất nguy hiểm, đó là Ngài dám thu nhận một người thu thuế tên là Matthêu làm môn đệ. Điều này có thể kích động lòng giận dữ của dân chúng cũng như giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Vẫn biết đó là điều nguy hiểm, nhưng Chúa vẫn làm. Với tấm lòng rộng mở, đầy tràn tình thương và sự chân thành, Chúa đã khơi gợi nơi Matthêu niềm khao khát hướng thiện, chứ không để ông ngụp lặn mãi trong tiền tài vật chất vốn đã bị pha trộn với gian dối, tội lỗi và sự nhơ nhuốc.
Sau đó, để minh chứng niềm vui vì ‘được Chúa gọi’, Mát-thêu còn mở tiệc ăn mừng, và cũng để chia tay với các bạn đồng nghiệp. Thật là một ‘ơn huệ’ ‘nhưng không’! Đúng vậy, tất cả các ‘ơn gọi tông đồ’ đều là ơn ban ‘nhưng không’. Vì chẳng có ai có công trạng hoặc xứng đáng được tham dự vào công việc của Nước Trời! Và chẳng có ai làm được việc gì cho Nước Trời, nếu không có bàn tay Chúa trợ giúp! Vì thế, tất cả chúng ta, dù làm công tác gì trong cộng đoàn phục vụ Giáo xứ, hay trong Giáo Hội, thì cũng phải luôn luôn nhớ mình chỉ là “đầy tớ vô dụng” mà thôi!
Chúa Giêsu còn nói “Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi “người tội lỗi”. Ở đây ta lại khám phá ra một điều ‘lý thú’ nữa: Ai được Chúa ‘kêu gọi’ làm ‘việc gì’, còn phải nhớ ‘điều quan trọng’ nữa: Mình chính ‘là kẻ tội lỗi’, nên được ‘Chúa kêu gọi’! Vậy mà nhiều khi người ta lại nghĩ ngược lại: cứ tưởng mình là người thánh thiện, nên Chúa gọi, thậm chí cả các Đấng các Bậc cũng nghĩ thế. ‘Kiêu ngạo’ đến thế thì thôi!
Tin Mừng cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời. by Huệ Minh
Thứ Bảy 13 Mùa Quanh Năm
St 27:1-5,15-29; Tv 135:1-2,3-4,5-6; Mt 9:14-17
Bản chất của luật mới…
Nhân cơ hội giải thích cho những người Pharisêu lý do vì sao các môn đệ Chúa không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.
Trong cựu ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Israel là nàng dâu.
Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Người là chàng rể và Israel là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại. Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng Messia đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (chàng rể) đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay.
Việc ăn chay phải gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Người vui thì con người phải chia vui với Người. Khi Người khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Người chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người. Khi Người sống lại thì con người cũng cùng sống lại với Người.
Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Người chính là chàng rể Chúa Cha sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người. Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay là để dọn lòng tiếp rước Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.
Câu hỏi mà các môn đệ của ông Gioan hỏi Chúa Giêsu hôm nay, tương tự với câu hỏi trước đó của những người Biệt Phái hỏi Chúa Giêsu ở câu 11. Những người Biệt Phái đã hỏi các môn đệ của Chúa Giêsu, "Tại sao thầy các ông lại ăn với những người thu thuế và tội lỗi ?" Bây giờ các môn đệ của ông Gioan hỏi Chúa Giêsu : "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay ?" Hai câu hỏi đại diện cho hai quan điểm của sự thánh thiện đạo đức. Một quan điểm cho rằng người ta không thể cùng ăn uống đồng bàn với người tội lỗi, một quan điểm khác cho rằng người ta phải ăn chay theo luật trong mọi thời điểm.
Với câu hỏi của các môn đệ ông Gioan, Chúa Giêsu dùng ba hình ảnh khác nhau để trả lời cho họ, đồng thời Ngài giải thích lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay như các môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu.
Hình ảnh đầu tiên mà Chúa Giêsu đã sử dụng là Ngài đã áp dụng thuật ngữ "Tân lang" dành cho Ngài. Nếu Chúa Giêsu là "Tân lang", các môn đệ của Ngài là "những người bạn của Tân Lang", những người được gọi đến với Ngài là cô dâu, thì việc ăn chay vào lúc có Ngài quả thật không phù hợp. Lý do mà những người Biệt Phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là bởi vì họ đang mong đợi ngày Chúa sẽ đến như chàng rể đến. Họ đang chay tịnh để chờ đợi ngày Chúa sẽ đến khôi phục lại Israel vì họ không tin rằng lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện qua Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là "Tân lang" nghĩa là Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa, Đấng phải đến, đã đến !
Chúa Giêsu còn đưa ra hai hình ảnh minh họa tiếp theo về sự khác biệt giữa việc ăn chay của người Pharisêu và các môn đệ của Ngài, bằng cách cho thấy sự khác biệt căn bản giữa Giao Ước Cũ và Mới. Với hai hình ảnh minh họa này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra bởi những người Biệt Phái và các môn đệ của Gioan. Không phải việc giảng dạy và mục vụ của Chúa Giêsu chỉ là một chút thay đổi luật, giống như một miếng vá mới trên tấm áo cũ là hệ thống luật hiện hành của Do Thái giáo. Không phải Ngài chỉ đến để chỉ đổ nội dung của Giao Ước Mới vào hình thức cũ của Cựu Ước như rượu mới trong bầu da cũ.
Chúa Giêsu cho họ biết, Ngài đã dẫn những ai muốn theo Ngài đi vào một thế giới hoàn toàn mới. Hình ảnh vải mới vá vào áo cũ, rượu mới đổ vào bầu da cũ, cũng giống như hình ảnh một linh kiện mới được gắn vào để nâng cấp máy tính cũ, một lớp sơn mới sơn lên một mảng tường của ngôi nhà cũ… Tất cả những thứ đó chỉ là những vá víu không hoàn chỉnh. Chúa Giêsu đến mang theo một bộ mặt mới, một tinh thần mới trong việc giữ luật. Ngài trả lời cho những người chất vấn Ngài rằng, họ không thể ép Ngài và các môn đệ của Ngài đi vào hệ thống tinh thần của luật cũ.
Áp dụng đoạn Tin Mừng cho chúng ta ngày hôm nay là gì ? Chúng ta ăn chay là bởi vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến. Chúng ta không ăn chay như những người Biệt Phái và các môn đệ của ông Gioan đã làm trong thời Chúa Giêsu. Chúng ta ăn chay bởi vì chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Hôn Phu của chúng ta đã đến để khai mở vương quốc của Ngài, và chúng ta háo hức chờ đón Ngài đến một lần nữa trong vinh quang.
Chúa nhật XIII TN-2020
Mt 10, 37-42
THEO CHÚA
Tin Mừng hôm nay, là phần kết luận của chương 10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng.
Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành mục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Người ta chỉ thị cho họ phải chấp nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ hành hạ và bị giết chết. Đứng trước viễn tượng đó Người đã khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không được tôn trọng trước mặt người đời, nhưng trước mặt Thiên Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng đối với các tông đồ.
“Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy”. “Vì Thầy” cũng chính là “Vì anh em”. Biết bao lần, Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với tha nhân. Đó là sợi chỉ hồng xuyên suốt các Tin mừng. Người tuyên bố:”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Đến ngày phán xét, Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta: "Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.
Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình. Hi sinh cái tôi để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái tôi này có vĩ đại tới đâu, cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”. Chính Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha. “Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15, 3) Trong vườn Cây Dầu, Người đã “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39) Ý Cha đã thực thi hoàn toàn trong cái chết của Chúa Giêsu. Như vậy, Người đã từ bỏ chính mình. Muốn “theo Thầy”, môn đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9, 23)
Xét cho cùng, khi sống kiếp phàm trần, Chúac Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối. Từ lời nói tới việc làm, Chúa Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha (Ga 14, 10). Bởi đấy, nếu “vì yêu mến Thầy” (Ga 16, 27) mà anh em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10, 39) thì “chính Chúa Cha sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16, 27) Nơi đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể vượt lên trên tất cả để đạt tới “một cái gì tuyệt đối, tột đỉnh và nền tảng.”
Như thế, “theo Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Thực vậy, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10, 40) Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10, 30) Không những Người hiệp nhất với Chúa Cha, nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (Mt 10, 40) và người nghèo (Mt 26, 40). Như vậy, khi “theo Thầy”, người môn đệ biết mình theo ai và phải làm gì.
“Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Nhưng đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thật thế, tất cả những ai miệt mài trong tiền của, danh lợi, chức quyền, lạc thú riêng mình, thì rồi cũng chỉ chuốc lấy đắng cay, chua xót, muộn phiền mà thôi.
Trái lại, một cuộc sống tiêu hao vì người khác sẽ luôn là một cuộc sống tràn đầy, sung mãn. Chính trong phục vụ chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Chính qua những cử chỉ yêu thương chúng ta mới tìm được bản thân mình. Đó là chính là ý nghĩa của “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta vẫn thường hát: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
Con đường của Chúa Giêsu cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể hiểu được thế nào là mất hoặc tìm được sự sống khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu. Ai nghĩ rằng, chỉ có cuộc sống trần thế là quan trọng hơn cả, thì kẻ đó sẽ tìm đủ mọi phương tiện để chiếm hữu của cải và tìm cách hưởng thụ, nhưng kẻ đó sẽ phải đối diện với cái chết với hai bàn tay trắng. Tất cả đều phải để lại khi đã xuôi tay. Kẻ đó không hiểu đâu là ý nghĩa của cuộc sống con người. Ý nghĩa của cuộc sống con người chính là: Thiên Chúa là khởi nguyên, là trung điểm và tận cùng của cuộc sống con người.
Do đó, ai đặt Thiên Chúa vào địa vị cao trọng nhất trong cuộc sống, kẻ đó hiểu giá trị đích thực của đời sống. Kẻ đó am hiểu những gì Thiên Chúa sẽ trọng đãi đối với kẻ mến yêu Ngài. Cho nên, dầu sống hay chết, dù sống an ninh hay trong nguy hiểm, tất cả đều nằm trong vòng tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Ai sống như thế, kẻ đó tìm được sự sống.
Theo Chúa là một cuộc đấu tranh để đạt tới hạnh phúc viên mãn,vĩnh cửu, bất diệt. Ngay sau những lời nhắc nhở chúng con về việc tôn nhận Chúa là Đấng tuyệt đối, Người cũng cho thấy cái giá phải trả khi theo Chúa:”Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” . Thập giá ở đây chính là chiến thắng sự giằng co giữa thế trần và Nước Trời, phải biết gạt bỏ tình cảm , ý riêng của mình, từ bỏ những tình cảm gia đình, những sở thích, nhu cầu của bản thân, hội nhóm để đi theo con đường Chúa đi, Lời Chúa dạy qua Tin Mừng.
Đức Kitô cũng đã trải qua đau thương, Người đã chiến đấu và chiến thắng trước những cám dỗ của ma quỉ. Chính Chúa đã vác Thập giá tiến đến đồi Sọ và sẵn sàng đổ máu mình ra làm chứng cho sự thật, tình yêu. Cuối cùng Người đã chiến thắng sự chết, Người đã Phục sinh vinh hiển và lên trời.
Ta thấy trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Trang Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.
Huệ Minh
Thứ Hai 29 tháng 6...
Thánh Phêrô và Phaolô tông đồ
Mt 16, 13-19
CỘT TRỤ CỦA GIÁO HỘI
Chúa Giêsu đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phêrô là xứng đáng đại diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời" (Mt 16,19). Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khoá này.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh "Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy" (Mt 16,17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Nhìn vào lịch sử, ta thấy Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô. Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có nhiều khác biệt.
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở là satan. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba lần chối mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh kytô hữu. Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của hai ông chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống đổi mới con người theo như lòng Chúa mong ước.
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (Mt 16,18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ "tảng đá", chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô.
Thánh Phaolô là "dụng cụ ưu tuyển" để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc. Thánh Phêrô, người đánh cá miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô (Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô là người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Người còn sống. Nhưng ông gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin. (Cv 9, 1-22)
Nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: "một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con".
Thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng từng có những khuyết điểm trong cuộc đời của các ngài. Phêrô yếu đuối, nhút nhát. Phaolô kiêu căng, thẳng thắn. Vì tấm lòng khuyết tật nên Phêrô từng chối Chúa ba lần. Còn Phaolô thì lao vào việc truy sát người tin vào Chúa Giêsu phục sinh để bách hại và giết chết. Thế nhưng, cả hai đã nhận ra sự khuyết tật của mình để phấn đấu, để vươn lên. Nhất là biết cậy vào ơn Chúa mà kiện toàn con người mình và phụng sự Thiên Chúa. Phêrô đã từng cảm nghiệm "Ơn Ta đủ cho ngươi và quyền năng Ta hiển trị trên sự yếu hèn của ngươi". Phaolô thì trông cậy vào sức mạnh của Chúa mà ông đã đi đến cùng sự bách hại, gian truân, đói rét, tù đầy nhưng vẫn giữ vững đức tin. Cả hai đã nhờ ơn Chúa mà bù đắp những khuyết tật của mình để hoàn thiện con người mình theo như lòng Chúa mong ước.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có những yếu đuối, có những bước đi bị vấp té bởi cạm bẫy của tham sân si. Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: "lầm lỗi là của con người", nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của "thánh nhân". Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài. Chúa không trách phạt các ngài mà còn tin tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận cùng trái đất.
Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng". Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: "phải nghe lời Thiên Chúa hơn là lời của con người". Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi chúng ta hãy làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ thân quen.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững. Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo Hội.
Thật thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Cử hành trọng thể lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta cám ơn Chúa đã yêu thương và xây dựng Hội Thánh để Ngài luôn hiện diện giữa thế gian. Nhờ có Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thiên Chúa và được dạy dỗ để đi trên con đường của Ngài. Tin vào điều đó nhưng đồng thời cũng tin Chúa trao cho chúng ta (ở trong Hội Thánh) sứ vụ làm chứng cho Ngài, vì Ngài không chỉ muốn cứu độ một nhóm người, nhưng Ngài muốn tình yêu cứu độ của Ngài phải được loan báo cho muôn dân. Chúng ta là những người mà Ngài đang cần đến, là những người mà Ngài tuyển chọn để thi hành sứ mạng đó.
Mừng lễ hai thánh tông đồ, chắc chắn chúng ta thêm niềm tin trong Hội Thánh, thêm niềm tin trong sứ vụ mà Chúa đã trao cho Hội Thánh. Noi theo gương hai Ngài, chúng ta luôn tuyên xưng cách vững chắc " Ngài là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống", Ngài là Đấng đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã xây dựng và đã sai Hội Thánh tiếp nối công việc của Ngài. Hiểu và tin được điều đó, chúng ta đã góp phần xây dựng Hội Thánh trường tồn và lan rộng cho đến tận cùng thế giới.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh.
Và ta thấy dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta.
Thứ Ba tuần 13 TN
Mt 8, 23-27
SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Điều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời mình, dù có lúc xem ra Ngài đang ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xảy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa.
Cơn bão xảy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa.
Các Môn đệ đã thật sự hoảng sợ khi gặp giông tố, thế mà Chúa Giêsu lại đang ngủ. Cơn bão đến khiến cho các môn đệ không còn bám víu vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền, cũng như các ông không còn tự phụ vào sức mạnh và khả năng chèo thuyền vượt biển của mình. Trái lại, các môn đệ đã chạy đến Chúa: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!”. Chính nhờ lời cầu xin trong lúc không còn hy vọng, các môn đệ được chứng kiến phép lạ và uy quyền của Chúa Giêsu. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ hãy vững tin rằng: ra khơi với Chúa, các ông sẽ được bình an.
Trước cơn sóng gào gió rít dữ dội, những ngư dân dầy dạn kinh nghiệm như các môn đệ của Chúa Giê-su cũng phải kinh hoàng sợ hãi. Thế mà Ngài vẫn ngủ. Các ông vội vã đánh thức Ngài, xin Ngài cứu họ. Nhưng Đức Giê-su không vội dẹp yên sóng gió như lời các ông yêu cầu; đối lại, Ngài đánh thức các ông, đánh thức đức tin đang ngủ mê của họ: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin!” Đức Giêsu vẫn hiện diện đó. Người có ngủ, nhưng Người biết những gì đang xảy ra và biết cần làm gì. Làm cho sóng biển yên lặng là cần, nhưng đánh thức lòng tin của các môn đệ còn cần hơn; đó là điều phải làm trước hết.
Chuyện Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên thuyền vượt qua biển hồ thì gặp phải cơn bão, biển động mạnh dữ dội, sóng nước ập vào thuyền. Tuy nhiên, cơn bão không phải là nguyên nhân chính gây ra nỗi kinh hoàng sợ hãi cho các môn đệ. Nó chỉ là mối đe dọa từ bên ngoài, chỉ làm sợ hãi thêm chứ không phải là điều gây thảm kịch. Nguyên nhân chính là vì các môn đệ đã thiếu lòng tin vào Chúa.
Cơn bão xảy ra đã làm cho các môn đệ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình. Trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa và cầu xin với Ngài: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các môn đệ được chứng kiến phép lạ và nhận ra quyền năng của Chúa Giêsu.
Sau cơn bão, lòng tin của các môn đệ đã lớn hẳn lên. Khủng hoảng hay thử thách đức tin cũng là dịp tôi luyện để chúng ta có thể lớn lên và trưởng thành. Vì thế, đừng chỉ nhìn vào những khó khăn, thử thách bên ngoài mà lo sợ, than vãn. Nhưng phải giữ vững lòng tin, khơi lên ngọn lửa thật sáng trong chính lòng mình.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Điều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng cho đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xảy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa.
Cơn bão đã xảy ra đã làm cho các Tông đồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình, trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất.” Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông đồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Đức tin không chỉ là chấp nhận một số chân lý ghi trong sách vở nhưng là nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời mình, và khám phá ra quyền năng của Ngài trước mỗi biến cố cuộc sống. Vì thế, nhất quyết phải bám chặt vào Ngài là “điểm tựa” vững chắc, trong lúc chính bản thân mình và mọi cái quanh mình đều nhỏ bé, mong manh, mỏng giòn, yếu đuối, tròng trành, trôi dạt, bấp bênh.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những “cơn giông tố” của thế gian. Những lúc ấy chúng ta cảm thấy hình như Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta; hoặc Ngài đang ở đó nhưng Ngài đang ngủ. Ta được nhắc nhở rằng: thử thách xảy ra là để chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối và mỏng giòn của mình, để chúng ta đừng chỉ cậy dựa vào sức mình; nhưng hãy cậy dựa vào Thiên Chúa, thì phép lạ dẹp tan giông tố sẽ đến bên đời chúng ta.
Khi thuyền gặp sóng to gió lớn ở giữa biển, các môn đệ hoảng sợ kêu xin Chúa cứu giúp; còn Đức Giêsu vẫn thiếp ngủ. Đức Giêsu tỉnh giấc và dùng quyền năng làm cho sóng yên biển lặng. Còn các môn đệ càng thêm vững lòng tin vào Thầy của họ.
Lúc cuộc đời gian truân, khốn khó hoặc khi phải đối diện với cái chết, lòng tin vào Chúa của chúng ta cũng dễ chao đảo, vấp ngã. Chính khi ấy, cầu nguyện là phương cách tốt nhất để Chúa có thể lắng nghe nỗi lòng của chúng ta. Bởi vì, chính Đức Giêsu đã bảo đảm: “Tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em”. (Ga 15, 16)
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con.” Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hàng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
thứ Tư tuần 13 TN
Mt 8, 28-34
CUỘC TRỪ QUỶ QUÁ ĐẮT
Chúa Giêsu đến với người dân miền Giêrasa, nhưng họ đã khước từ Người. Chúa đã thực hiện dấu lạ chữa lành hai người bị quỷ ám và cho quỷ nhập vào đàn heo. Chúa giải thoát hai con người khỏi quyền lực ma quỷ và giải phóng dân làng khỏi nỗi sợ hãi trên con đường mà trước đây “không ai dám qua đường ấy”, nhưng họ đã xin Người rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế có lẽ vì sợ phải gánh chịu thêm những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của Chúa. Họ vẫn biết uy quyền trổi vượt của Người, nhưng lại tiếc đàn heo, sợ mất mát của cải vật chất. Họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và như thế, họ đánh mất nhiều điều lớn lao hơn nữa.
Và ta thấy việc trừ quỷ này thật ‘đắt đỏ’: để chữa lành cho hai người, mất toi cả đàn heo! Phản ứng của dân thành cũng thật quyết liệt: xin Người rời khỏi vùng đất của họ, bởi vì biết đâu Người chẳng chữa thêm vài người bị quỷ ám nữa, và họ lại có thể phải mất thêm vài đàn heo khác! Bậc thang giá trị của họ thật rõ ràng: đàn heo quý hơn sinh mạng con người. Hình như nhiều lúc chúng mình cũng cư xử y như dân thành Gadara đó thôi! Coi trọng vật chất hơn con người, quyền lợi của mình hơn cả sự sống của người khác. Có thể không đến nỗi “đốt nhà hàng xóm chỉ để luộc chín một quả trứng” như phát biểu của một nhà văn, thế nhưng, chúng mình cũng thật ích kỷ khi chấp nhận tình trạng ai chết mặc ai, miễn là quyền lợi, tài sản tôi không xuy xuyển chút nào!
Phép lạ vừa được kể lại cho chúng ta có thể bị chúng ta coi như hơi kỳ quặc. Lúc ấy Chúa Giêsu muốn giải thoát cho hai người bị quỷ ám. Hai người này đã khuấy động đời sống dân làng vì không ai dám lại gần họ và qua lại lối ấy.
Thật là ý tưởng ngộ nghĩnh khi cho bọn quỷ nhập vào bầy heo và khiến chúng lao xuống biển! Chẳng lẽ Chúa Giêsu không có thể làm cách khác sao? Tại sao Chúa đã không đơn giản ra lệnh cho các thần ô uế buộc chúng phải cút đi ngay? Khi cho quỷ nhập vào bầy heo. Người đã làm cho dân chúng nơi đó phải sợ hãi. Những người chủ bầy heo hẳn đã phát điên lên khi nhìn đoàn vật chết chìm dưới biển. Kết cục là họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Ma quỉ dường như muốn thỏa hiệp với Đức Giê-su và có thể nói, ma quỉ muốn đề nghị với Người ứng xử theo nguyên tắc “nước giếng không phạm nước sông: “Hỡi con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông?” Nhưng Chúa Giêsu là sự sống chiến thắng sự chết, vừa được diễn ta bằng biến cố Người vượt qua biển hồ, chiến thắng sóng to gió lớn, vốn là biểu tượng của sự chết. Chúa Giêsu đi tới đâu sự chết bị đánh tan đến đó, giống như ánh sáng đánh tan bóng tối. Chúa Giêsu còn là Ngôi Lời sáng tạo (Ga 1, 3).
Ta hãy nhìn ngắm hình ảnh rất ngoạn mục : đạo binh qủi, đàn heo, từ sườn núi lao xuống biển và chết hết. Đó chính là nơi chốn và năng động của ma quỉ : thú tính, bạo lực và sự chết ; chứ không phải là nhân tính, hiền lành và sự sống.
Chúa đến giải thoát con người khỏi thần ô uế, khỏi thú tính, khỏi bạo lực và sự chết. Nhưng ở một quan điểm khác, Ngài đến quấy nhiễu trật tự vốn là như thế của con người, của chúng ta, của cuộc đời tôi ; Ngài buộc tôi phải trả giá quá lớn, đến cả “bầy heo” ! Vì thế, người ta kinh ngạc, nhưng cũng thấy sợ hãi, mệt mỏi, phiền hà và mất mát ; nên họ mời Ngài đi nơi khác.
Theo Sáng Thế chương 1, Lời Thiên Chúa không chỉ sáng tạo từ hư vô, nhưng còn là đưa trật tự vào cõi hỗn mang, phá tan cái tình trạng hàm hồ bằng cách tách ánh sáng khỏi bóng tối, sự sống khỏi sự chết, nhân tính khỏi thú tính. Thật vậy, khi Ngài nói: “Đi đi!” Chúng (ma quỉ) liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo (thú tính).
Con người thường dễ có khuynh hướng như thế, thà khước từ Chúa hơn là khước từ vật chất; thà chấp nhận sống dưới sự cai trị của tội lỗi, miễn là được sung túc, tiện nghi, giàu có. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa. Có nhiều lúc, con người thấy Chúa đáng sợ và không muốn Chúa đến gần mình, nhất là khi Người đòi họ phải từ bỏ, hay khi Người muốn trục xuất một tên quỷ dữ lâu nay đang trú ẩn trong họ.
Chúa có ý dạy ta điều này: để giải thoát con người khỏi sự dữ, đôi khi Chúa đòi người ta phải trả giá một chút cho ơn giải thoát ấy. Chắc chắn những người dân làng ấy mong cho hai người bị quỷ ám kia được cứu thoát. Nhưng muốn cho điều ấy xảy ra, mà họ đã không sẵn sàng chịu tốn công tốn của một chút.
Những gì xảy ra thời Đức Giêsu khi xưa, thì trong xã hội hôm nay cũng đã, đang và sẽ xảy đến với chúng ta. Thật vậy, vẫn còn đó những cám dỗ về tiền tài, danh vọng và xác thịt do ma quỷ gây nên. Vẫn còn đó những thửa đất và môi trường thuận lợi cho ma quỷ hoành hành. Những thửa đất đó là: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, bất nhân nơi nhân tâm của con người.
Bên cạnh đó, hình ảnh chốn chạy của những người chăn heo vẫn còn tái diễn nơi những người thiếu trách nhiệm, sống vô kỷ luật và tán tận lương tâm. Và, vẫn còn đó hình ảnh những người sẵn sàng tin Chúa, nhưng không chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời như dân thành khi xưa đã mời Chúa ra khỏi nơi ở của họ.
Những thứ mà con người hôm nay hay lựa chọn thay cho những giá trị Tin Mừng là: tiền bạc bất chính, danh vọng hư ảo, hận thù ghét ghen, ma men tối ngày, ma đề triền miên, ma xác thịt , quỷ dâm loạn ... Mỗi lần chúng ta lựa chọn các điều xấu xa như thế, ấy là lúc hình ảnh những người trong thành ra đón Chúa nhưng lại không thích Chúa ở lại trong thành của họ vì biết bao điều khuất tất họ đang làm lại tái diễn cách sống động nơi chúng ta.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mời gọi chúng ta rằng “đừng sợ”. Đừng sợ Chúa Kitô, nhưng “hãy mở, hãy mở rộng cửa cho Người, […] vì Người chẳng bao giờ lấy mất cái gì của chúng ta. Người sẽ đem lại cho chúng ta muôn nghìn điều quý giá hơn bao giờ hết”.
Thứ Năm tuần 13 TN
Mt 9, 1-8
LÒNG TIN
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Tin Mừng Maccô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Người bại liệt được khiêng đến với Đức Giê-su ngay khi Ngài xuất hiện. Hẳn họ đã chờ đợi Ngài từ lâu, vì tin vào khả năng chữa lành của Ngài. Thế nhưng, cũng có những kẻ chờ đợi Ngài, không phải để được chữa bệnh, mà là để kiếm cớ bắt bẻ Ngài. Vin vào câu nói “Tội con được tha” của Chúa Giêsu, họ cho rằng Ngài phạm thượng.
Nếu Chúa Giêsu phạm thượng, thì chắc chắn lời của Ngài không đủ hiệu năng để chữa lành, đang khi lời ấy đã làm cho người bại liệt đứng dậy vác giường mà đi. Vậy mà họ vẫn cố chấp, xúc phạm đến Ngài. Họ mới đúng là những kẻ phạm thượng, vì không tin quyền năng Thiên Chúa đang hoạt động nơi Chúa Giêsu.
Điểm mấu chốt cho sự việc phép lạ được Chúa thực hiên, trước tiên đòi hỏi người ta phải có lòng tin nơi Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu làm các phép lạ dựa vào niềm tin của người đến xin Ngài. Do đó, Chúa thường nói trước khi Ngài thực hiện phép lạ là: “lòng tin của anh đã cứu anh”. Hôm nay cũng thế: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Này con, cứ\yên tâm, con đã được tha tội rồi…”
Như vậy, nếu ta muốn được Chúa Cứu chuộc và tha thứ những tội lỗi trước hết chúng ta phải đặt niềm tin trọn vẹn và tuyệt đối nơi Thiên Chúa, bởi chỉ có Ngài mới có quyền tha thứ và chữa lành bệnh tật hồn xác cho chúng ta mà thôi!
Thực ra trước mắt chúng ta, hàng ngày vẫn xảy ra bao điều kỳ diệu mà chúng ta có thể coi như phép lạ. Đó là những trật tự lạ lùng trong vũ trụ; Gió mưa, sấm sét… hay như ngay trong thân thể của chúng ta đang diễn ra bao điều lạ lùng mà chúng ta không không thể hiểu thấu được. Từ việc tuần hoàn của máu và sự hấp thụ tiêu hóa… Tất cả những việc đó xảy ra đều do sự an bài, quan phòng, điều khiển của Thiên Chúa!
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Phép lạ được Chúa thực hiện qua lòng tin mạnh mẽ của người bệnh cũng như những kẻ đã khiêng bệnh nhân này đến với Chúa. Nhưng ngoài việc chữa lành bệnh tật nơi thân xác. Chúa Giêsu còn hướng lòng trí mọi người lên tầm cao hơn. Đó là Người còn có quyền phép chữa bệnh tật tâm hồn và quyền năng tha thứ những tội lỗi trên mọi con người.
Với biến cố này, ta thấy chính Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta, Chúa có quyền trên thân xác và linh hồn của mỗi người chúng ta. Trước mặt Chúa, chúng ta như người bại liệt, không làm chủ được mình, mà phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng nhân lành của Chúa.
Ta cũng thấy được giá trị của sự hiệp thông trong cộng đoàn. Đức tin của chúng ta có được không phải nhờ vào chính bản thân của mình, nhưng trước hết là nhờ vào ông bà, cha mẹ và gia đình. Khi chúng ta lớn lên, đức tin đó được nuôi dưỡng trong cộng đoàn, bởi đời sống tốt lành của nhiều người.
Từ đó nhắc nhở chúng ta sống không phải chỉ cho riêng mình, mà còn để hiệp thông với những người chung quanh nữa. Vì vậy lối sống tưởng như của riêng mỗi người lại liên đới với mọi người. Nếu sống đức tin một cách nhu nhược thì hậu quả không chỉ có mình gánh chịu, mà cả cộng đoàn và cả Giáo Hội cũng phải bị ảnh hưởng. Ngược lại, khi sống đức tin một cách manh mẽ thì những người sống chung quanh cũng sẽ được hưởng nhờ..
Một mình người bất toại không thể đi gặp Chúa Giêsu, vì anh chẳng có sức cất bước. Anh phải để kẻ khác đỡ nâng, khiêng vác mình. Nhìn nhận các giới hạn, khiếm khuyết của chúng ta, khiêm tốn chấp nhận sự giúp đỡ cộng tác của anh em là phương thế chắc chắn nhất giúp chúng ta đến gặp Chúa. Và một khi được kẻ khác giúp đỡ, đến lượt chúng ta cũng hãy mau mắn giúp kẻ khác như vậy.
Chúa Giêsu thán phục niềm tin của người bất toại cũng như của những kẻ khiêng anh ta đến: vì muốn gặp Chúa, họ đã vận dụng mọi cách để làm cho kỳ được. Ngày nay ai muốn gặp Chúa, cũng phải biết hy sinh dẹp bỏ mọi chướng ngại vật quanh mình và trong bản thân mình. Có như vậy mới thể hiện được lòng khao khát đến với Chúa của từng người chúng ta.
Qua phép lạ chữa cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy bằng lòng để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì Ngài đã làm cho người bất toại. Chúng ta hãy trình diện với Chúa Giêsu trong bí tích Hoà giải và lắng nghe Ngài nói với chúng ta những gì Ngài đã nói với người bất toại : ”Tội lỗi của con đã được tha”.
Thứ Sáu 3 tháng 7 ,
Thánh Tôma tông đồ
Ga 20, 24-29
Noi gương Thánh Tôma tông đồ
Thánh Tôma là người Do thái ở miền Galilê. Mặc dầu ít học, nhưng ngài có óc tìm tòi, một ý chí kiên vững, một tinh thần tận tụy hy sinh. Khi được Chúa gọi, ngài đã sẵn sàng bỏ mọi sự đi theo Chúa, và được chọn vào số các Tông đồ.
Tôma đã không tin lời chứng của các môn đệ rằng Chúa Giêsu đã sống lại qua việc Ngài hiện ra với họ. Đức tin của cộng đoàn các môn đệ, những người bạn thân thiết đã cùng ông theo Chúa nhiều năm tháng, không giúp ông tin vào sự sống lại của Chúa. Ông khẳng định mình chỉ có thể tin nếu chính ông được gặp Chúa hiện ra, để xác nhận rằng đó chính là Chúa Giêsu thật qua các vết thương của Ngài. Tuy nhiên, khi Chúa hiện ra với ông, Tôma đã không cần thực hiện việc ‘xác nhận’ đó nhưng vẫn tin Chúa đã thực sự sống lại.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác, hẳn ai cũng biết ngài là người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng nói: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy thì mới có sự thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta ngày hôm nay phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
“Sự hồ nghi của Tôma” là điều mà không ít Kitô hữu ngày nay đang gặp phải, đặc biệt là các bạn trẻ phải rời xa gia đình, xa cộng đoàn giáo xứ thân quen để bước vào môi trường học tập, làm việc mới, nơi có những chủ trương, lối sống, học thuyết dễ khiến đức tin của họ bị chao đảo. Khi đó, họ cũng có cùng tâm trạng với thánh Tôma khi xưa, đó là cảm thấy đức tin của cộng đoàn mà mình đã và đang sống chung không giúp gì cho họ trong việc tìm lại niềm xác tín vào Chúa. Có thể họ vẫn đi lễ, vẫn tham dự các cử hành phụng vụ cùng với cộng đoàn, nhưng lại cảm thấy lạc lõng giữa những người đang sốt sắng cầu nguyện, ca ngợi Chúa. Cái họ cần là một cảm nghiệm cá vị với Chúa.
Khi xưa, Chúa đã đáp ứng “yêu cầu” chính đáng này của thánh Tôma, nhưng Ngài không hiện ra với một mình ông, nhưng là với cộng đoàn các môn đệ có Tôma ở đó. Điều này có nghĩa là hành trình tìm kiếm niềm xác tín cá nhân không thể tách rời khỏi cộng đoàn, nhưng phải được thực hiện trong cộng đoàn và nhờ sự trợ giúp của cộng đoàn. Ngày nay, có lẽ Chúa sẽ không hiện ra cách tỏ tường với mỗi cá nhân để đáp lại mọi yêu cầu phải nhìn thấy Chúa thì mới tin vào Ngài, nhưng Chúa chắc chắn cho ta gặp được Ngài qua những gương sáng sống đức tin ngay trong chính cộng đoàn: đó có thể là một cụ già ít học, lọm khọm chống gậy đến nhà thờ mỗi ngày dù trời mưa gió; hay đó cũng có thể là một người đồng trang lứa, sẵn sàng hy sinh thời gian, công sức để làm việc bác ái.
Cuộc đời chúng ta nếu không có Chúa sẽ “trở lại đường xưa lối cũ” của mê lầm tội lỗi. Không có Chúa mọi nỗ lực cố gắng về đường thiêng liêng trở thành luống công vô ích; nếu vắng bóng Chúa thì tất cả chỉ là “dã tràng xe cát biển đông”.
Lời khẩn cầu của Tôma là lời khẩn cầu Chúa thương xót, cũng là lời khẩn cầu của từng người chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót, và đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13,1). Chính vết thương nơi Thánh Tâm Chúa trên Thánh Giá là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót.
Sự cứng tin của Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. “Đừng cứng lòng!” phải chăng là lời gọi hãy tránh xa những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
Thánh nhân đã công khai tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa, với một niềm tin vững vàng mạnh mẽ, giúp cho mọi người tin thật Chúa Giêsu đã sống lại, như lời Thánh Ghêgôriô Cả đã nói: “Không phải tình cờ, nhưng Chúa đã an bài xảy ra như vậy. Lòng từ bi cao cả của Người đã hành động một cách tuyệt vời, để nhờ người môn đệ hoài nghi ấy sờ vào các thương tích nơi thân thể Thầy mình, mà vết thương cứng lòng tin ở nơi ta được chữa khỏi. Sự cứng lòng tin của Tôma còn giúp ích cho lòng tin của ta hơn là đức tin của các tông đồ khác. Bởi vì ông đã sờ vào Chúa rồi mới tin, nên tâm trí ta cũng rũ bỏ được mọi nghi nan và trở nên vững vàng trong đức tin. Quả vậy, người môn đệ ấy khi nghi nan mà sờ mó thì đã trở thành nhân chứng của sự kiện phục sinh”.
Niềm tin cần phải được kiểm chứng, đó cũng là thái độ của con người ngày hôm nay. Có lẽ do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, nên người ta đòi mọi sự đều phải được kiểm chứng, phải được cân đong đo đếm. Thế nhưng, họ không biết được rằng, trong cuộc sống, không phải bất cứ thứ gì cũng có thể chứng minh một cách rạch ròi, đó là chưa kể đến những lãnh vực nhạy cảm như: tình cảm, tình yêu, sự hy sinh, lòng vị tha, sự quảng đại…
Niềm tin vào Chúa phục Sinh đã giúp ông biến đổi cuộc đời. Từ việc ông đòi hỏi phải được nhìn thấy bằng mắt, phải sờ được bằng đôi tay, thì giờ đây, bằng đôi mắt của đức tin và sự cảm nghiệm thiêng liêng, ông đã trở nên một Tông Đồ nhiệt thành cho Chúa. Tương truyền rằng, ngài đã đi sang tận miền Ấn Độ xa xôi để truyền giảng Tin Mừng ơn cứu độ và chịu tử đạo ở đó.
Chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và thực hiện lời của Người. Bởi vì có Chúa thì mọi công lao vất vả của chúng ta sẽ được ban thưởng như mẻ cá ắp đầy lạ lùng. “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37, 5).
Noi gương Thánh Tôma Tông đồ, chúng ta luôn cố gắng tìm tòi học biết niềm tin vào Chúa Kitô, để giúp những người cứng lòng được tin thật Người là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ trần gian.
Thứ Bảy tuần 13 thường niên
Mt 9, 14-17
DỨT KHOÁT ĐỂ THEO CHÚA
Khi có mấy môn đệ của ông Gioan đến gặp Chúa Giêsu thắc mắc về chuyện họ phải ăn chay trong khi môn đệ của Chúa thì không. Bấy giờ Chúa Giêsu giải thích cho họ biết thêm vì “khách dự tiệc cưới không thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Khi khẳng định điều này, Chúa Giêsu quả là một người quan sát tinh tế vì ở thời đó người ta chưa có bình đựng rượu nên họ thường chứa trong một cái bầu làm bằng da thú. Nếu rượu cũ đổ vào bầu da mới, rượu lên men và thải ra lượng khí carbon độc hại, túi da sẽ rách và rượu chảy ra ngoài. Trái lại rượu mới phải chứa trong bầu da mới vì da mới có tính đàn hồi nên sẽ không bị rách.
Chúa Giêsu còn dùng một hình ảnh rất quen thuộc với mọi người như việc lấy vải mới vá vào áo cũ, miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng rách to hơn. Với lối nói so sánh bằng hình ảnh, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta cần có một tư tưởng mới, một cái nhìn cởi mở thì mới hiểu được những việc Chúa làm, hiểu được những giá trị của Tin Mừng.
Có thể nói đây là một cuộc cách mạng lề luật giúp người ta không bị héo mòn trong mớ lề luật để vươn lên tầm cao mới của tình yêu mến. Việc ăn chay, đi lễ, đọc thiên kinh vạn quyển mà thiếu đức ái thì việc ấy có ích gì. Nếu chỉ giữ lề luật mà trong lòng còn chất chứa sự hận thù ghen ghét, đối xử bất công với người khác thì nào có ích gì.
Trên bước đường theo Chúa, ta thấy Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước.
Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo Chúa là phải chấp nhận hy sinh, từ bỏ. Phải ra khỏi những sự ổn định của cuộc sống để ưu tiên cho sứ mạng. Ngài báo cho anh ta biết như thế để phần nào phá tan những tâm tưởng của nhiều người và có thể là của chính anh về một Đấng Mêsia quyền thế, giàu sang, ổn định theo kiểu người đời. Những lối hiểu như thế không đúng về con người và sứ vụ của Đấng Thiên Sai.
Thật thế, Chúa Giêsu không có gì làm của riêng cho chính mình. Từng lời rao giảng, từng phép lạ và cả cuộc đời của Ngài là thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha cho trọn vẹn. Vì vậy, nếu anh thanh niên này muốn theo Ngài, thì cũng phải đón nhận cuộc sống như Ngài đã sống. Một cuộc sống mà theo lối nói của Việt Nam thì: “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Có lẽ Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước.
Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Muốn thực sự theo Chúa Giêsu, người tín hữu cần có một tâm hồn tự do và thái độ cương quyết. Tự do với tiền của, với công việc và với mọi giá trị trần thế hay không để tâm hồn bị trói buộc bởi chúng. Cương quyết với những gì cản trở ơn gọi và sứ mạng tông đồ như những gì thánh Phaolô đã kể ra là loại bỏ tính xác thịt và sống theo Thần Khí của Đức Kitô. Hỏi rằng là kitô hữu hay là môn đệ của Ngài, chúng ta đã cương quyết theo Chúa và sống ơn gọi của mình ra sao, có dứt khoát theo Chúa đến cùng trong mọi hoàn cảnh không, đã triệt để sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí chưa? Nguyện xin Chúa tha thứ những thiếu sót và lỗi lầm của chúng ta. Xin Ngài ban cho chúng ta dồi dào ân sủng để mỗi người luôn bền đỗ đến cùng trong ơn gọi làm môn đệ của mình
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa. by Huệ Minh
July 10, 2023