MẮT
THẤY TAI NGHE (Mt 11, 2-11)
“Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe...”
Tôi rất yêu thích câu trả lời đầy hiện thực của Đức Giêsu, vì đó là một thực
tại trong cuộc sống thực dụng hiện nay. Câu trả lời của Người
làm tôi liên tưởng đến cách diễn giải rất ư là thực tế của thánh
Gioan tông đồ vì:
“Nếu
ai có của cải thế gian
và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,
mà chẳng động lòng thương,
thì làm sao tình yêu Thiên Chúa
ở lại trong người ấy đựơc?
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi trót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật
và bằng việc làm.” (1Ga 3, 17-18)
Suy
tới đây, tôi nhớ lại thời gian cách đây 2 tháng, tôi đã phải
phân vân và day dứt để tìm
một câu giải
đáp cho lời đề nghị quá đỗi làm tôi ngỡ ngàng về sự bất ngờ
nhưng hàm chứa lời tha thiết ân cần.
Số
là một độc giả mà tôi chưa hề quen biết gửi đến tôi một thư điện
tử với lời mời tôi
đến thăm Mái Ấm Phan
Sinh gồm gần 20 người mang chứng bệnh gẫy rồi liệt tủy sống.
Phần đông phải ngồi xe lăn, gặm nhấm nỗi đau thương tê tái
và chịu đựng những di chứng của căn bệnh ác liệt mỗi ngày mỗi
phát
tăng. Họ rất đỗi cô đơn và có lúc chán chường vì cuộc đời chẳng
còn ý nghĩa gì đối với họ nữa. Độc giả trên khuyến khích tôi
đến đó thăm họ, mặc dù người này biết tôi cùng mang mầm bệnh
như họ qua những bài chia sẻ Lời Chúa hằng tuần của tôi. Cuối
thư, chị còn dứt khoát để lại cho tôi địa chỉ và số phôn của
Mái Ấm đáng yêu ấy.
Và
thế là tôi tự hỏi: tôi làm gì đựơc cho họ khi tôi cũng còn đang
sống nhờ vào lòng hảo tâm của người
khác tốt bụng? Tôi nói về Chúa Giêsu với họ sao được khi họ
đang quá đau khổ? Câu hỏi cứ thế làm tôi vấn vương, xao xuyến
và trăn
trở. Rồi cuối ngày, về đêm, trong tĩnh lặng, tôi bỗng chợt
nhớ đến câu chuyện về ông Gióp và tôi vội mở Kinh Thánh để lắng
nghe
lại ghi chép trong sách của ông. Tôi đọc đi đọc lại và suy
gẫm những lời sau đây:
“Ba
người bạn của ông Gióp nghe biết tất cả những tai họa xảy ra
cho ông, liền kéo đến .... Họ bàn nhau
đến
để chia buồn và an ủi ông.... Rồi họ ngồi xuống đất, bên cạnh
ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy
rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn.” (G 2, 11-13)
Quả
là trước nỗi đau khổ quá lớn của ông, ba người bạn làm sao nói
được gì!
Nhưng họ vẫn ở lại để lắng
nghe, để nhìn thấy. Sự hiện diện của họ, ngay vào thời điểm
đó, là tối cần thiết để xoa dịu nỗi đau của ông mà ông đang rất
cần
có người đồng cảm, sẻ chia lo lắng.
Sau
khi tìm đựơc sự khích lệ cùng sức sống mới qua Lời Kinh Thánh,
tôi đã hiểu ra và rồi
tôi đã quyết định
đến với Mái Ấm Phan Sinh quí yêu ấy bằng sự cố gắng vượt lên
phía trước, không cần phải hỏi độc giả đã viết thư mời gọi
tôi. Đến với người đau khổ, tôi chỉ cần chấp nhận lắng nghe,
lắng
nghe tiếng kêu, lắng nghe nỗi thống khổ, đo lường chiều dài
vô tận của nó, và thấu hiểu cũng như chấp nhận rằng: ngôn từ
không
thể nào đáp ứng được mà phải dấn thân cả cuộc đời mình vào.
Có như thế mới có thể trở nên một Tin Mừng hữu hiệu.
Khi
chiêm ngắm lại bài Tin Mừng CN 3 Mùa Vọng, tôi đã hiểu thêm được
lời
ngợi khen của Đức Giêsu khi nói về
ông Gioan Tẩy Giả:
“Chính
ông là người Kinh Thánh nói tới khi chép rằng:
Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con đến.” (Mt 11, 10)
Gioan
Tẩy Giả đã thể hiện những hoạt động rất cụ thể để “dọn đường”
cho Đấng Cứu
Thế đến. Ngài không chỉ
kêu gọi sám hối suông bằng lời nói, mà chính ông đã dấn thân
trọn vẹn con người của ông vào việc sửa lối cho thẳng để Chúa
đi, bằng những hy sinh hãm mình. Ông đã ra “đi” đến với nhiều
ngưới nghèo đang chờ đợi Đấng Messia đến. Ông mời gọi họ đi
vào thực hiện:
“Ai
có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng
làm như vậy.” (Lc 3, 11)
Ông đã mạnh dạn đấu tranh cho chân lý để rồi phải ngồi tù trước
sự ghen tương đố kỵ của kẻ khác. Ngay trong khi tù tội, ông
vẫn giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của ông để những người
này
nhận ra Người là Đấng Phải Đến chứ không phải ông mà họ lầm
tưởng. Quả thật, Gioan đã từ bỏ được cái tôi vị kỷ của mình
bằng nhiều
cách để quyết tâm làm cho nhiều người nhận ra Đức Giêsu là
Đấng Messia như lời Kinh Thánh đã tiên báo. Ông hăng say và
miệt mài
làm chứng cho Ánh Sáng.
Con
đường Nhập Thể của Đức Giêsu được Người mời gọi rất tha thiết
trước khi ra đi về với Chúa Cha là:
“Thầy
ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau;
anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.
Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy:
là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 34-35)
Quả
là huyền nhiệm khi ĐTC Gioan Phaolô II nói về Mẹ Têrêsa Calcutta,
người
đã sống trọn vẹn cho Tin Mừng:
“.
. Thấm nhuần sâu xa tinh thần bác ái Phúc Âm, Mẹ xác tín: khát
tình yêu là khát các linh
hồn, đụng vào
thân xác của người đau khổ là đụng vào thân xác Đức Kitô. Mẹ
muốn mang ơn Cứu Độ đến cho dân nghèo, cho lớp người bị bỏ
quên. Mẹ muốn đem các linh hồn về cho Thiên Chúa và đem tình
yêu của
Thiên Chúa cho các linh hồn”.
Lạy
Cha yêu thương và nhân hậu,
Xin mở đôi mắt của con để con nhìn
ra những người anh em đang gặp khó khăn hoạn nạn là hiện thân
của Chúa
Giêsu, Con Cha.
Xin mở tai con để con lắng nghe được những tiếng than thở của
họ và rồi xin dẫn con đi theo con đường Nhập Thể mà Con Cha đã
mời gọi là “anh em hãy có lòng yêu thương nhau.”
Có mắt thấy tai nghe, có dấn thân đi vào hiện thực cuộc sống
như Mẹ Têrêsa, chúng con mới có thể làm chứng cho Sự Hiện Diện
đích thực của Chúa nơi tha nhân. Amen.
Phêrô
Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
Phêrô
Vũ văn Quí
|