| |
LỄ HIỂN LINH NĂM A
SỐNG TINH THẦN YÊU THƯƠNG
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Lúc Đức Giêsu sinh ra, những ai biết được Ngài đã sinh ra và sinh ở đâu? Họ biết được là nhờ phương tiện gì? Phương tiện nào giá trị và chính xác nhất? Và phương tiện nào đã giúp đương sự thật sự gặp được Đức Giêsu?
2. Biết về Thiên Chúa một cách đúng đắn và chính xác có bảo đảm là sẽ thật sự gặp gỡ và cảm nghiệm được Ngài không? Những kẻ không biết đúng đắn và chính xác về Ngài có thể gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài không? Yếu tố quan trọng để gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài là gì?
3. Bạn rút ra bài học gì về khả năng được cứu rỗi của dân ngoại? Điều quan trọng để được cứu rỗi là tin, là biết cho chính xác, hay là thực hiện điều mình tin, điều mình biết, tức thật sự sống tinh thần yêu thương của Thiên Chúa?
Suy tư gợi ý:
1. Ba cách biết khác nhau về sự kiện Đấng Cứu thế sinh ra
Cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu – Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã tiên báo hàng trăm năm trước – đã sinh ra một cách rất âm thầm tại làng Bêlem. Âm thầm, nhưng vẫn có những người biết sự kiện này. Đó là các mục đồng, rồi đến các nhà chiêm tinh ngoại giáo, sau cùng là vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái. Họ biết theo những cách thức khác nhau, và phản ứng của họ sau khi biết cũng rất khác nhau.
Các mục đồng đơn sơ chất phác thì được các thiên sứ trực tiếp đến báo tin. Đây là cách biết dễ dàng nhất, mau lẹ nhất, khỏe nhất, không đòi hỏi tài năng hay suy luận cao xa, không đòi hỏi phải chủ động tìm kiếm rồi mới biết, mà lại chính xác nhất… Tất cả đều do Thiên Chúa sắp đặt và cho biết một cách vô điều kiện. Và sau khi biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu, các mục đồng đã đến thăm viếng Ngài.
Các nhà chiêm tinh thì biết theo kiểu khác. Các ông khám phá ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Các ông dùng kiến thức về chiêm tinh học để suy đoán ra ý nghĩa của ngôi sao ấy. Và điều rất quan trọng là các ông đã lên đường tìm kiếm «Đức Vua Dân Do Thái mới sinh» (Mt 2,2), dù xa xôi. Và các ông đã gặp được Ngài là một hài nhi nằm trong máng cỏ. Cách biết này mang tính tự nhiên, không chính xác, đòi hỏi thêm nhiều kiến thức tự nhiên của con người. Tuy vậy, cách biết bất toàn này đã giúp các ông thật sự gặp được Đấng Cứu Thế mới sinh.
Vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái lại biết theo kiểu khác nữa. Nếu không nhờ các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm thì họ sẽ chẳng bao giờ đặt vấn đề hay tìm hiểu về việc Đấng Cứu Thế sinh ra. Nhưng phải công nhận là sau khi được hỏi tới, họ biết được ngay nơi Đấng Cứu Thế sinh ra nhờ tra cứu Kinh Thánh, là mặc khải siêu nhiên và bảo đảm của Thiên Chúa. Nhờ Kinh Thánh, họ biết đích xác nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là tại làng Bêlem. Nhưng khác với hai loại người trước, họ biết rồi để đấy, cái biết của họ – tuy rất chính xác và bảo đảm – chỉ là một cái biết thuần túy, chẳng dẫn tới hành động, chẳng dẫn họ đến với Đấng Cứu Thế, cội nguồn ơn cứu độ.
2. Phải lên đường đi tìm, phải biến cái biết thành hành động
Như vậy, để biết về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, hay về chân lý có thể có nhiều cách biết khác nhau. Có cách do tự nhiên, có cách do siêu nhiên; có cách hoàn toàn do Thiên Chúa, có cách đòi hỏi sự góp phần của con người; có cách bảo đảm đúng và dễ dàng, có cách còn mơ hồ và còn phải nỗ lực nhiều mới đạt được sự chính xác… Nhưng xem ra không phải những ai biết chính xác về Thiên Chúa thì sẽ đương nhiên gặp được Ngài, còn những ai không biết đúng về Ngài thì sẽ không gặp được Ngài. Nhiều người biết rất chính xác về Thiên Chúa nhưng lại chẳng có một nỗ lực nào đi tìm Ngài, nên cái biết ấy vô ích chẳng khác gì không biết! Ngược lại, có những người biết về Ngài rất lờ mờ, thậm chí sai lạc, nhưng lại có quyết tâm đi tìm Ngài. Cuối cùng chỉ những người thật sự đi tìm Ngài mới gặp được Ngài. Vì đối với Thiên Chúa hay Chân Lý, thì «ai tìm, sẽ thấy» (Mt 7,7-8). Còn nếu chỉ biết do nghe nói về Ngài, mà không lên đường đi tìm Ngài, thì cái biết ấy vô ích. Cái biết ấy tuy quí giá, nhưng chẳng khác gì một món tiền lớn đựng mãi trong két sắt, chẳng bao giờ được đem ra xài, nên chẳng lợi ích gì cho người chủ của nó: chủ nó thiếu thốn vẫn tiếp tục thiếu thốn.
Quả thật, nhiều người Kitô hữu tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo mặc khải, là tôn giáo chân chính phát xuất từ Thiên Chúa. Họ biết rất nhiều và rất chính xác về Thiên Chúa. Nhưng cái biết ấy chẳng đem lại lợi ích gì cho tâm linh và sự sống đời đời của họ. Vì họ chẳng đem chỉ biết ấy ra thực hành. Đức Giêsu nói họ chẳng khác gì những «người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,26). Giữa việc biết và việc thực hành cái biết ấy là cả một vực thẳm phải vượt qua, như một linh mục nọ thường nói: «Từ cái tai đến cái tay là cả một khoảng cách» (Lm Nguyễn Văn Siêu, sj).
3. Nỗ lực thành công của dân ngoại đến tìm Chúa
Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh hôm nay cho thấy: dân ngoại mà nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì sẽ gặp được Ngài, còn chính dân của Thiên Chúa nếu không nỗ lực tìm kiếm Ngài thì chẳng gặp được Ngài. «Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm 2,4; x. Dt 2,9), nên đối với những người ngoài Kitô giáo, Thiên Chúa vẫn dành cho họ những con đường riêng biệt để đến với Ngài. nhưng «bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết thôi» (Cđ Vat II, MV 22,5).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có những con đường ấy bằng một trình thuật đầy oái oăm: Những kẻ có tôn giáo chân chính, có Kinh Thánh hay Lời Chúa trong tay, hiểu biết rất chính xác về Thiên Chúa thì lại không gặp được Ngài. Còn những kẻ không có tôn giáo chân chính, không có phương tiện hữu hiệu để biết Ngài, thì lại gặp được Ngài nhờ quyết tâm tìm kiếm Ngài. Điều ấy thật ứng nghiệm lời Kinh Thánh: «Dân mà trước đây không phải là dân của Ta, thì Ta sẽ gọi là Dân của Ta» (Os 1,10 ® Rm 9,26). Với những kẻ tự hào mình có tôn giáo chân chính, có Lời Chúa trong tay mà không chịu sống tôn giáo ấy, không chịu thực hành Lời Chúa, thánh Phaolô viết: «Còn bạn, bạn mang danh là đạo Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có Thiên Chúa; bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân» (Rm 2,17-18.23-24). Những người này, cũng theo thánh Phaolô, trước mặt Thiên Chúa, không giá trị bằng những người ngoại mà sống đúng theo luật lương tâm: «Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. Nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,25-27).
Do đó, được là người Kitô hữu là một ơn rất lớn lao và đặc biệt. Nhưng lại cũng là một trách nhiệm, vì ai nhận nhiều thì sẽ bị đòi hỏi phải sinh lợi ra nhiều, ai nhận ít thì bị đòi hỏi ít (x. dụ ngôn yến bạc: Mt 25,14-30). Nếu ta sống đúng tinh thần của người Kitô hữu là luật yêu thương của Đức Giêsu (x. Ga 13,34), thì hạnh phúc và phần thưởng cho chúng ta, đời này cũng như đời sau (x. Lc 18,30; Mc 10,30), sẽ vô cùng lớn lao. Nhưng nếu ta không đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra thực hành trong đời sống, thì giá trị của ta không bằng người ngoại giáo biết sống đúng theo lương tâm của họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, là người Kitô hữu, chúng con thường tự hào rằng tôn giáo của mình là chính giáo. Nhưng quả thật, nhiều khi chúng con lại không sống tinh thần yêu thương của Đức Kitô bằng nhiều người ngoại giáo. Qua bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, xin cho chúng con ý thức được nguy cơ này: coi chừng chúng con cũng giống như Hêrôđê và các kinh sư Do Thái, có tôn giáo chân chính, có phương tiện để gặp Cha, để được cứu rỗi trong tay, nhưng cuối cùng tất cả những ưu đãi ấy đều trở thành vô ích vì sự ù lỳ của chúng con. Đang khi ấy, nhiều người ngoại giáo lại có diễm phúc gặp Cha và gần Cha hơn chúng con, chỉ vì họ biết dấn thân quảng đại đáp lại những ơn Cha ban, dù ơn đó họ được ít ỏi hơn chúng con. Xin cho chúng con biết thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, để chúng con xứng đáng là người Kitô hữu đích thực.
January 2, 2014
DÂN NGỌAI ĐÓN TIÉP ƠN CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC KITÔ
ĐỌC
LỜI CHÚA
•
Is 60,1-6: (2) Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp
chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh
quang Người xuất hiện trên ngươi. (3) Chư dân sẽ đi về phía ánh
sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến
bước.
•
Ep 3,2-3a.5-6: (6) Mầu nhiệm Đức Kitô là: trong Đức Kitô, nhờ
Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người
Dothái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên
Chúa hứa.
•
TIN MỪNG: Mt 2,1-12
Các
nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi
(1)
Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị
vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, (2) và
hỏi: «Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy
vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người». (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành
Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các
thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô
phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: «Tại Bêlem, miền Giuđê, vì
trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) 'Phần ngươi, hỡi Bêlem,
miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì
ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời». (7)
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn
kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị
ấy đi Bêlem và dặn rằng: «Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về
Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng
đến bái lạy Người. » (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ
ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận
nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng
rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria,
liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ
hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng
là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ
mình.
CHIA
SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Các kinh sư Do Thái có tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa
thiết lập, còn các nhà chiêm tinh là dân ngoại, bị dân Do Thái
coi là theo tà giáo. Nhưng trong bài Tin Mừng này, ai là người
gặp được Đấng Cứu Thế Hài Nhi? Tại sao lại như vậy? Có phi lý
không?
2.
Có tôn giáo chân chính có phải là điều bảo đảm sẽ gặp Thiên Chúa,
sẽ được vào Nước Trời không? Không có tôn giáo chân chính có phải
là không thể gặp Thiên Chúa hay không thể vào Nước Trời không?
Vấn đề chính yếu hệ tại điều gì?
Suy
tư gợi ý:
1.
Một sự kiện xảy ra một cách oái oăm, nghịch lý
Điều
đáng lưu ý trong bài Tin Mừng lễ Hiển Linh chính là việc Thiên
Chúa mặc khải chân lý – ở đây là việc giáng sinh của Đấng Cứu
Thế – một cách không chính thức cho dân ngoại, là những người
không thuộc tôn giáo chính thống của Ngài, và họ đã đạt được chân
lý hay đã gặp được Đấng Cứu Thế.
Trong
bài Tin Mừng này, ta thấy có hai hạng người:
1.
Dân Do Thái, cụ thể là giới lãnh đạo xã hội và tôn giáo, là dân
được Thiên Chúa tuyển chọn và có tôn giáo chính thống của Thiên
Chúa. Dân Do Thái đã được Thiên Chúa chính thức mặc khải việc
Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra qua các ngôn sứ trước đó hàng mấy trăm
năm, mặc khải này đã được ghi lại trong Kinh Thánh, và toàn dân
đều mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Có Thánh Kinh trong tay, giới lãnh
đạo xã hội và tôn giáo của Do Thái biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra
tại Bêlem.
2.
Dân ngoại, mà đại diện là «mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông»
(Mt 2,1). Họ không có tôn giáo chính thống của Thiên Chúa, cũng
không có Kinh Thánh trong tay, vì thế họ không biết chính xác
Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và sinh ra ở đâu. Nhưng Thiên Chúa cho
họ biết Đấng Cứu Thế đã sinh ra nhờ một phương tiện khác, có thể
là kiến thức khoa học hay tôn giáo riêng của họ.
Kết
quả là những người có tôn giáo chính thống, có Kinh Thánh trong
tay, biết được chính xác nơi sinh ra của Đấng Cứu Thế lại không
gặp được Ngài vì họ không thèm đi tìm. Còn những người không có
tôn giáo chính thống, chỉ biết được Ngài sinh ra một cách rất
mơ hồ, lại gặp được Đấng Cứu Thế, vì họ đã quyết tâm tìm kiếm
Ngài. Sự kiện này phải làm chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học.
2.
Biết xuông không đủ, phải biến cái biết thành cuộc sống
Sự
kiện trên cho chúng ta thấy: việc có tôn giáo chính thống hay
biết được những mặc khải chính thức của Thiên Chúa là một điều
rất thuận lợi để đạt được chân lý hay để gặp được Thiên Chúa.
Nhưng có đạt được chân lý hay có gặp được Thiên Chúa hay không
còn tùy thuộc vào thiện chí và nỗ lực tìm kiếm của con người.
Những người Do Thái – cụ thể nhất là giới lãnh đạo Do Thái giáo
– tuy biết được chính xác Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Bêlem, nhưng
họ chỉ biết để mà biết, để rao truyền, để thông tin cho người
khác, chứ không phải để sống hay để thực hiện điều mình biết.
Nên cuối cùng những thuận lợi hay kiến thức ấy trở thành vô ích
cho họ. Còn dân ngoại – mà các nhà chiêm tinh là một điển hình
– tuy được Thiên Chúa mặc khải chân lý một cách mù mờ không chính
xác, nhưng nếu họ có thiện chí, và nỗ lực tìm kiếm để đạt đến
chân lý, để gặp Thiên Chúa, thì cuối cùng Ngài cũng giúp họ đạt
được điều họ tìm kiếm. Đúng như lời của Đức Giêsu: «Ai tìm thì
sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở cho họ» (Mt 7,8). Vậy vấn đề
quan trọng là ta có nỗ lực đi tìm hay thực hiện điều mình biết
hay không.
Nếu
các nhà chiêm tinh cũng có não trạng như giới lãnh đạo tôn giáo
Do Thái, thì khi «thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông»
(Mt 2,2), họ cũng sẽ chỉ coi đó như một kiến thức như bao kiến
thức khác chẳng ảnh hưởng gì đến họ, và họ sẽ chẳng gặp được Đấng
Cứu Thế. Nhưng trong thực tế họ đã quyết tâm lên đường tìm kiếm
Ngài. Và Thiên Chúa đã giúp họ bằng cách cho ngôi sao dẫn đường
đến nơi Đấng Cứu Thế sinh ra. Điều khiến họ hơn hẳn những người
được chính thức mặc khải là việc dấn thân tìm kiếm. Kết quả cho
thấy nỗ lực tìm kiếm chân lý hay Thiên Chúa có giá trị hơn việc
biết được những mặc khải chính thức rất nhiều.
3.
Đừng vội tự mãn về việc mình có tôn giáo chân chính
Vì
thế, chúng ta đừng vội tự hào rằng tôn giáo của chúng ta là tôn
giáo chân chính, và cứ thế mà an tâm vì chúng ta đã được Thiên
Chúa mặc khải cho những chân lý bảo đảm nhất. Nếu chúng ta quyết
tâm lợi dụng tôn giáo chính thống hay những mặc khải chính thức
để tìm gặp Thiên Chúa, thì chúng ta có lợi thế hơn người ngoại
giáo rất nhiều. Nhưng nếu chúng ta ỷ lại vào lợi thế đó để khỏi
phải cố gắng sống đúng theo những mặc khải đó thì coi chừng chúng
ta sẽ chẳng đạt được gì cả. Chuyện ngụ ngôn thỏ và rùa chạy đua
là một bài học rất đích đáng cho những người có tôn giáo chính
thống như chúng ta. Thỏ có nhiều thuận lợi để thắng cuộc hơn rùa
rất nhiều, nhưng chính vì ỷ lại vào những thuận lợi đó mà thỏ
đã thua cuộc. Cũng vậy, người đi bộ hay đi chiếc xe đạp cọc cạch
mà quyết tâm tới đích thì vẫn bảo đảm sẽ tới đích hơn là người
có chiếc xe hơi thật tốt thật nhanh nhưng lại không quyết tâm
đi tới đích ấy.
Qua
bài Tin Mừng về lễ Hiển Linh, ta thấy để gặp được Thiên Chúa,
cần có hai yếu tố: về phía Thiên Chúa, ta cần phải được Thiên
Chúa soi sáng, chỉ dẫn, mời gọi và giúp sức; về phía ta, chính
ta phải đáp lại lời mời gọi và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Thiếu một
trong hai yếu tố đó, việc gặp Thiên Chúa không thể thành tựu được.
Yếu tố về phía Thiên Chúa luôn là yếu tố khởi động: Ngài mời gọi
ta trước, và Ngài để ta được hoàn toàn tự do trong việc đáp lại
hay từ chối lời mời gọi của Ngài. Yếu tố về phía ta vẫn là yếu
tố chủ động mang tính quyết định. Đối với các kinh sư Do Thái,
qua Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh
ra. Họ được mặc khải rõ ràng, được mời gọi một cách ưu tiên hơn
và trân trọng hơn các nhà chiêm tinh rất nhiều, nhưng họ lại không
chủ động đáp lại lời mời gọi ấy. Còn đối với các nhà chiêm tinh,
Thiên Chúa đã cho họ thấy vì sao của Đấng Cứu Thế. Họ tuy được
mặc khải rất ít, và không được ưu tiên mời gọi, nhưng lại chủ
động đáp lại lời mời gọi và lên đường tìm kiếm. Thiên Chúa đã
giúp họ tìm kiếm bằng ngôi sao dẫn đường, và họ đã tìm được Đấng
Cứu Thế.
Từ
đó, ta có thể kết luận: yếu tố quan trọng để gặp Chúa không nằm
ở việc có tôn giáo chính thống cho bằng ở chính nỗ lực của con
người có quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Ngài và có tìm Ngài
hay không. Người không có tôn giáo chân chính vẫn có thể gặp được
Ngài nếu quyết tâm và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Ngược lại, người có
tôn giáo chân chính mà thiếu nỗ lực đó thì tôn giáo chân chính
trở nên vô ích đối với họ. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: «Từ
phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ
phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước
Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ
phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12).
Thánh
Phaolô quảng diễn ý tưởng ấy rõ ràng hơn: «Phép cắt bì hẳn là
có ích nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật,
thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì» (Rm 2,25). Câu
này cho thấy phép cắt bì hay rửa tội, dấu chứng của người có tôn
giáo chân chính, sẽ trở nên vô ích nếu ta không tuân giữ luật
của Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết tiếp: «Trái lại, nếu người không
được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được
cắt bì, Thiên Chúa lại chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? Người
không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người
ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã
được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,26-27). Lời này cho
thấy người không được cắt bì hay rửa tội, nếu sống đúng thánh
ý Thiên Chúa, tuân giữ luật Chúa được ghi khắc trong lương tâm
họ (x. Rm 2,15) – nghĩa là yêu mến Thiên Chúa bằng đời sống yêu
thương tha nhân, sống trọn tình trọn nghĩa – thì họ cũng được
Thiên Chúa coi như đã được cắt bì hay rửa tội. Vì thế, điều quan
trọng đối với chúng ta, người Kitô hữu, là phải làm theo thánh
ý Thiên Chúa, giữ đúng luật mới và cũng là duy nhất của Đức Kitô
là «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em»
(Ga 13,34). Không giữ luật của Ngài thì việc theo Chúa hay có
tôn giáo chân chính của ta chẳng những trở nên vô ích, mà còn
là lý do để Thiên Chúa kết án ta nữa.
CẦU
NGUYỆN
Lạy
Cha, Cha đã mặc khải chân lý cho con qua Đức Giêsu. Đó là một
thuận lợi đặc biệt cho con hơn những người ngoài Kitô giáo để
sống đúng là con cái Cha và đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu
mà Cha dành cho con cái mình. Xin giúp con ý thức hồng ân cao
cả ấy để con sống đúng là con cái hiếu thảo của Cha, sống đúng
thánh ý Cha là sống có tình có nghĩa với Cha và với tất cả mọi
người chung quanh con. Nếu không, tất cả những chân lý mà Cha
mặc khải cho con đều trở nên vô ích và còn nên cớ cho con bị lên
án trong ngày phán xét cuối cùng nữa. (JK)
Nguyễn
Chính Kết
|
|