|
Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên
Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?
Tại
sao Chúa Giêsu không trả lời?
Nếu
các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó
hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa
Nhật 3 và 4 trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau,
chẳng những ở từng chu kỳ mà còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa.
Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh
Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu tiên
báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt
Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31,
nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã
xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái
“hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”.
Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc Vượt
Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người
sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người
cũng có ý nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi
đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo
trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết
rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn
trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”.
Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong
bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn
đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn
vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương
chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như
Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.
Thế
nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc
Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái,
Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho
Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật
tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là
lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã liên
kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính
thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu
bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành
phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát
hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc
Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp
vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá
của Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các
môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn
15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử
giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của các môn đệ
với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay
sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác
của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người
liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo
một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai
ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống
trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt
Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang
nói với các vị: “Ai phụng sự Thày thì hãy theo Thày, để Thày ở
đâu, thì tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu
và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều
hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên
cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên
đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn
chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con như đã bắt bớ Thày” (Jn 15:20).
Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn giống Thày như thế
mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của
họ.
Phải
chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình với
Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người
đã không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người
có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng
dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc
Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ
phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất
là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước
bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa
Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy hình như Chúa
Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn
gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng
Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ
dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo
như những gì đã được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là
gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành
phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng
đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa
miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ
chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc
tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn
vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc
Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày trò cùng ở một
nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.
Tuy
nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân
phận Vượt Qua của cả Thày lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than
lên: “Giờ đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao –
Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng
chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh
Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau buồn đến
nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần
hư đi thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một
tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì
người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà còn tuyệt
vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng thương xót
tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75).
Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị
loài người phủ nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận
tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể
yêu thương họ đến như thế, một tình yêu Người giành cho từng người
một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang
về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn
Cây Dầu, Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau
xót ấy.
Câu
trả lời của Chúa Kitô là…
Như
thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì thuộc
về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không
phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi
Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu
ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để
Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa
của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến
tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình
nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26;
x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa
thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi
Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x
Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm
hồn đã bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết
được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thày hiện nay bối
rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã thú thực trong
bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay
trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người
được nên trọn, như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người
trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”,
một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp lòng Cha đến nỗi, khi nghe
thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ
trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn
vinh danh Cha nữa’”.
Thiên
Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu không
phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà
đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái
và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như
thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi
cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng
Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của
họ, từ tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất
Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô
cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái
biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể
là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc Thiên
Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm
nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như
Con Ngài đã thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết
thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến rồi! Xin Cha hãy tôn vinh
Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên
Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha
đã tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là
lúc nào, nếu không phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm
Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu
chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11),
và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn
tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc
Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho
Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền
trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).
Vấn
đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo
bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết:
“Tiếng phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có
nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài
nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường
sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người
có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này,
Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18).
Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm
theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã
vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở
nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như
được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9),
cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối
cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt
đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người”
được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là gì, nếu không phải
là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc
biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa
Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một
chân lý cũng đã được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động
nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi
đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không
bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài
đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà
được cứu độ”.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức Thánh Cha - Huấn Từ Truyền Tin CN V Mùa Chay 22/3/2015
Anh chị em thân mến,
Trong Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay này, vị thánh ký Gioan làm cho chúng ta chú ý đến một chi tiết đáng tò mò, đó là có một số người "Hy Lạp", thuộc Do Thái giáo, bấy giờ cũng ở Giêrusalem để dự Lễ Vượt Qua, đến cùng Tông Đồ Philiphê mà nói cùng ông rằng: "Chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Gioan 12:21). Trong thành thánh này, nơi Chúa Giêsu đã đến lần cuối cùng đây, có nhiều con người ta. Có những con người bé mọn và những con người tầm thường, đã tỏ ra nồng hậu đón nhận vị tiên tri Nazarét này, nhìn nhận Người là vị sứ giả của Chúa. Có những vị Thượng Tế và thành phần lãnh đạo dân Chúa, những kẻ muốn loại trừ Người, vì họ coi Người là một tên lạc đạo nguy hiểm. Cũng có những người, như các người "Hy Lạp" ấy, những người tò mò muốn gặp Người và hiểu biết hơn về bản thân của Người cũng như về những công việc Người đã hoàn thành, mà việc cuối cùng đã từng gây chấn động là sự kiện hồi sinh của Lazarô.
"Chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu": Những lời này, như rất nhiều lời khác trong Phúc Âm, là những gì vượt ra ngoài tình tiết đặc biệt đây và bày tỏ một điều gì đó phổ quát; chúng cho thấy một ước vọng hiện diện nơi các thế hệ và văn hóa, một ước vọng hiện diện nơi tâm can của rất nhiều người đã nghe về Chúa Kitô, nhưng chưa được gặp Người.
Gián tiếp đáp lại một cách ngôn sứ lời yêu cầu muốn gặp Người này, Chúa Giêsu công bố một lời tiên báo về căn tính của Người và tỏ cho biết cách thức để thực sự nhận biết Người, đó là "Đã đến giờ Con Người được vinh hiển" (Gioan 12:23). Đó là giờ của Thánh Giá! Đó là giờ Satan bị đánh bại, tên chúa trùm sự dữ, và là cuộc chiến thắng tối hậu của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng Người sẽ "bị treo lên khỏi mặt đất" (câu 32), một bày tỏ có một ý nghĩa lưỡng diện: "bị treo lên - lifted" là vì Người bị đóng đinh, và "được nâng lên - lifted" là vì Người được Cha tôn vinh (exalted) khi Phục Sinh, để kéo hết mọi người đến cùng Người cũng như để hòa giải nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Giờ của Thánh Giá, giờ đen tối nhất trong lịch sử, cũng là giờ của nguồn mạch cứu độ cho những ai tin tưởng nơi Người.
Tiếp tục tiên báo về Cuộc Vượt Qua sắp đến của mình, Chúa Giêsu sử dụng một hình ảnh đơn sơ mà gợi ý, đó là hình ảnh về "hạt lúa miến", một thứ hạt khi rơi xuống đất, chết đi để sinh hoa trái (câu 24). Nơi hình ảnh này chúng ta thấy một khía cạnh khác của Thánh Giá Chúa Kitô, đó là khía cạnh phong phú. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn sự sống mới bất tận, vì nó chất chứa quyền lực tái sinh của tình yêu Thiên Chúa. Được dìm vào tình yêu này nơi Phép Rửa, Kitô hữu có thể trở thành "những hạt lúa miến" và sinh nhiều hoa trái nếu họ, như Chúa Giêsu, "mất sự sống của mình" vì yêu mến Thiên Chúa và anh chị em (câu 25).
Thế nên, đối với những ai ngày nay cũng "muốn gặp Đức Giêsu", với những ai đang tìm kiếm dung nhan của Thiên Chúa; với những ai đã học giáo lý khi còn nhỏ mà sau đó chưa được hiểu biết sâu xa hơn, có thể lại còn mất đức tin nữa; với rất nhiều người bản thân chưa được gặp gỡ Chúa Giêsu...; với tất cả những ai chúng ta có thể cống hiến cho 3 điều là Phúc Âm, thập giá và chứng từ đức tin của chúng ta, tầm thường nhưng chân thành. Phúc Âm: nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nhận biết Người. Thập giá: dấu hiệu của tình yêu Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mình vì chúng ta. Rồi đến một đức tin được chuyển thành những cử chỉ chân thành của đức ái huynh đệ. Thế nhưng, chính yếu đó là ở nơi cái gắn bó của đời sống, giữa những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm. Việc gắn bó giữa đức tin của chúng ta với đời sống của chúng ta, giữa ngôn từ của chúng ta với việc làm của chúng ta: Phúc Âm, Thánh Giá và Chứng Từ.
Xin Đức Mẹ giúp chúng ta thực hiện ba điều này.
(Sau khi nguyện kinh truyền tin, ĐTC nói tiếp:)
Anh chị em thân mến,
Nhiều anh chị em đã đến đây bất chấp khí hậu ghê gớm. Chúc mừng anh chị em! Anh chị em đã tỏ ra rất can đảm. Tôi xin cảm mến chào anh chị em!
Hôm qua tôi đã thực hiện một chuyến viếng thăm mục vụ ở Naples... (Ngài ngỏ lời cám ơn và chào hỏi các phái đoàn hành hương khác hiện diện bấy giờ).
Giờ đây tôi sẽ lập lại một cử chỉ đã được thực hiện năm ngoái, đó là, theo truyền thống cổ kính của Giáo Hội thì trong Mùa Chay Phúc Âm sẽ được trao tặng cho những ai đang dọn mình lãnh nhận Phép Rửa; bởi vậy tôi cống hiến cho anh chị em đang ở Quảng Trường này hôm nay đây một cuốn Phúc Âm cỡ bỏ túi. Phúc Âm này sẽ được phân phối miễn phí bởi một số người vô gia cư sống ở Rôma. Ngay cả nơi việc này chúng ta cũng thấy được một cử chỉ rất đẹp đẽ được Chúa Giêsu yêu thích, đó là những ai thiếu thốn nhất là những người cống hiến Lời Chúa cho chúng ta. Anh chị em hãy nhận lấy Phúc Âm; hãy mang theo bên mình, hãy thường xuyên đọc, đọc hằng ngày. Hãy mang theo Phúc Âm trong xách tay, trong túi của anh chị em, thế nhưng hãy thường xuyên đọc Phúc Âm. Một câu, một đoạn hằng ngày. Lời Chúa là ánh sáng soi đường đi nước bước của chúng ta! Lời Chúa giúp ích cho anh chị em. Hãy đọc Lời Chúa.
Chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật Tốt Đẹp. Xin đừng quên cầu cho tôi. Chúc anh chị em một bữa trưa ngon lành và xin tạm biệt anh chị em!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
|
|