dongcong.net
 
 


Suy niệm : Trầm Thiên Thu

 

Gia nghiệp
(Chúa nhật XXVIII TN, năm B-2012)

Theo nghĩa cơ bản nhất, gia nghiệp là tài sản của gia đình – còn gọi là gia sản. Khi nói đến gia nghiệp, người ta thường liên tưởng ngay tới vật chất. Gia nghiệp rất quan trọng đối với mỗi gia đình. Đó là lẽ tất nhiên. Nhưng có một loại gia nghiệp quan trọng hơn: Thiên Chúa. Phần gia nghiệp này cực kỳ quan trọng. Chính Thiên Chúa đã nói với ông A-ha-ron: “Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en” (Ds 18:20).

Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6:19-20). Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Kho tàng ở đâu, thì lòng ở đó” (Mt 6:21). Rất thực tế. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Quả thật, vật chất có sức mạnh khó cưỡng lại, người ta thường gọi đó là “ma lực”.

Vì thế, ai cũng phải cẩn trọng. Muốn vậy, phải nhờ Đức Khôn Ngoan. Điều này liên quan Chúa Thánh Thần, vì ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi Ba.

CẦN THIẾT KHÔN NGOAN

Tác giả sách Khôn Ngoan cho biết: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:7-9). Tác giả so sánh để chúng ta thấu hiểu Đức Khôn Ngoan rất quan trọng, hơn cả mọi thứ trên trần gian này. Quả thật, “tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2).

Tác giả sách Khôn Ngoan nói thêm với chiều sâu hơn: “Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể” (Kn 7:10-11). Thật lạ cái “khoảng” trong mối tương quan rất lạ giữa có-mà-không và không-mà-có.

Thật là khôn ngoan khi tác giả Thánh vịnh cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12), và tiếp tục thân thưa: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây” (Tv 90:13). Tất cả là hồng ân Chúa ban, dù chúng ta có được khôn ngoan tới mức nào hoặc tài năng xuất chúng mà không được Thiên Chúa thương xót thì cũng vô ích. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót luôn cần thiết cho bất kỳ ai, và Lòng Chúa Thương Xót ấy đã có từ thuở hồng hoang, vẫn trải từ đời nọ đến đời kia (x. Lc 1:46-55).

Cầu nguyện không chỉ để xin những ơn này ơn nọ, mà còn phải biết chúc tụng Chúa, tạ ơn Chúa. Tác giả Thánh vịnh tiếp tục khôn ngoan khi cầu nguyện: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ, bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu” (Tv 90:14-15). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết ước nguyện như tác giả Thánh vịnh: “Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa được thấy công trình Ngài thực hiện, và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài. Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:16-17).

Tín thác vào Chúa quan phòng, chắc chắn chúng ta sẽ được ơn khôn ngoan đích thực.

KHÔN NGOAN ĐỂ SỐNG

Thánh Phaolô xác định: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệusắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12). Thật vậy, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc Lời Chúa lại khiến chúng ta hổ thẹn, đau buốt. Lời Chúa là tấm gương phản chiếu mọi thứ và là đèn soi thấu mọi nơi khuất tịch nhất của lòng con người. Thánh Phaolô giải thích rõ: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13).

Rất nhiều điều chúng ta thiếu sót, ngay cả người công chính cũng lầm lỗi mỗi ngày bảy lần, vì thế chúng ta có rất nhiều điều phải “trả lẽ” trước mặt Chúa, thậm chí có thể phải trả lẽ với Chúa về chính những gì mà chúng ta cho là “việc đạo đức” hoặc “việc tông đồ”, vì có thể chỉ là “cái vỏ bề ngoài”! Chúng ta có thể che giấu với người đời, nhưng không thể giấu được với Thiên Chúa, vì Ngài “ghi hình” và “ghi âm” chính xác từng chi tiết nhỏ của mỗi động thái nơi chúng ta, dù chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Do đó, chúng ta càng cần phải khôn ngoan mà sống!

Thánh sử Mác-cô kể rằng, hôm đó, Đức Giêsu vừa lên đường thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10:17). Chàng thanh niên này thật là khôn ngoan. Thấy lạ, Đức Giêsu hỏi lại: “Sao anh nói tôi là nhân lành?” (Mc 10:18a). Rồi Ngài nói tiếp: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18b). Và Ngài giải thích: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10:18b-19). Anh ta nói rất tự tin: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10:20). Hay quá! Tốt quá! Tuyệt quá! Thế nên Đức Giêsu “đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mc 10:21a). Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10:21b).

Mệt Chúa quá! Khó quá! Căng quá! Mà “căng” thật, vì vừa nghe lời đó, “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10:22). Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Ngài nói thế, các môn đệ sững sờ và ngây ngô “như chú Tàu nghe kèn”. Nhưng Ngài lại nói tiếp: “Các anh ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:23-24). Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và xầm xì với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10:26). Khó thật!

Chúng ta đừng vội trách chàng thanh niên “đại gia” kia. Tài sản của gia đình thì đã rõ. Tài sản của cá nhân cũng không khó hiểu. Nhưng có thể chúng ta “quên” loại tài sản “quan trọng” hơn. Rất có thể chúng ta nghèo vật chất nhưng “tài sản riêng” của chúng ta vẫn có thể thuộc loại “nứt đố, đổ vách”, vẫn “giàu sụ”, vẫn thuộc hàng “đại gia”. Đó là tính kiêu ngạo, lòng ghen ghét, sự thù hận, tính ích kỷ, thói gièm pha, thói xu nịnh, sự nhẫn tâm, sự vô tình, tính nhỏ mọn, lòng tự ái, óc bè phái, tính tham lam, thói lọc lừa, áp bức, lộng hành,… Và còn rất nhiều thứ khác nữa… Đó là loại “tài sản vô giá” mà chúng ta không muốn bỏ để có thể thanh thản bước theo Chúa. Gay quá!

Đức Giêsu biết các đệ tử đang xào xáo điều gì nên Ngài nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được (Mc 10:27). Ông Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (Mc 10:28).

Thánh tông đồ trưởng đã “đặt vấn đề” rất thực tế với Sư phụ. Chúng ta cũng có lúc đã từng như vậy! Nghe Phêrô hỏi, Đức Giêsu đáp ngay: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30).

Hãy lưu ý “điều kiện” trong câu nói của Chúa: “Được gấp trăm” nhưng kèm theo “cùng với sự ngược đãi”. Vấn đề là ở chỗ đó. Chỉ chú ý vế 1 mà “quên” vế 2 là sai lầm to. Phàm điều gì cũng có “điều kiện tự nhiên” kèm theo như điều kiện “ắt có và đủ” vậy: Có đau khổ mới hiểu được giá trị của hạnh phúc, có nước mắt mới quý trọng tiếng cười, có thất bại mới vui sướng khi thành công!

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan và giúp chúng con sống hết mình vì Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chúng con có thể an tâm vui sống vì có chính Ngài làm gia nghiệp vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU 2012

 

Lối Nhỏ Đường Sống
(Chúa Nhật XXVIII TN, năm B)

Giàu – Nghèo là vấn đề muôn thuở. Người nghèo luôn nhiều hơn người giàu, mọi thời và mọi lúc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Thực tế cho thấy rằng mấy ai “đẻ bọc điều” đâu. Thế nhưng có những người mới “hơn người” một chút đã tỏ vẻ “chảnh”, kênh kiệu thấy rõ!

Nghèo thì khổ, thiếu thốn đủ thứ, thậm chí thiếu cả những điều kiện sống cơ bản. Với người giàu, người Việt nói: “Miệng người giàu có gang, có thép”. Người Iran mỉa mai qua câu tục ngữ: “Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo họ nhầm lẫn; khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo họ ăn trộm”. Còn tục ngữ Nam Phi nói: “Lời đề nghị của kẻ nghèo được xét đến sau cùng”. Được xét là còn may, bởi vì thường thì mọi lời nói, đơn từ, vụ việc,… của người nghèo chẳng ai thèm quan tâm chi cho mất thời giờ. Nghèo không có tội, nhưng như “bị vạ” vậy!

Người nghèo khổ thật, thế mà còn bị khinh miệt nữa! Đó là một dạng vô cảm. Bà Hellen Adams Keller (1880-1968, tác giả và nhà hoạt động người Mỹ) nhận định: “Thói xấu tồi tệ nhất chính là sự vô cảm của con người”.

Có điều gì khác nhau giữa người nghèo và người giàu? Tục ngữ Phần Lan giải thích: “Người nghèo ăn khi nào có, người giàu ăn khi nào muốn”. Rất đơn giản mà rất thâm thúy. Nỗi đau ngấm ngầm và nhức buốt lắm! Tục ngữ Pháp phân tích: “Không ai kiêu ngạo hơn người giàu mà mới đây chỉ là kẻ nghèo kiết xác”. Khó vào Nước Trời là loại người giàu như vậy, chứ sự giàu có không là điều bất hạnh mà Chúa Giêsu đề cập.

Người giàu hay người nghèo đều cần sự khôn ngoan. Tại sao? Vì “khôn ngoan là thần khí hằng yêu mến con người” (Kn 1:6), “trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15), và “đức khôn ngoan là kho báu vô tận cho con người” (Kn 7:14). Quả thật, sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Có nhiều người khôn ngoan, thế giới được cứu thoát; nhờ một vị minh quân, cả thần dân được an cư lạc nghiệp” (Kn 6:24).

Tác giả sách Khôn Ngoan bộc bạch: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan” (Kn 7:7-8). Thật là khôn ngoan khi biết mình yếu đuối, bất tài, vô dụng, và biết cầu xin Thiên Chúa xót thương. Khôn ngoan là khiêm nhường, khiêm nhường là khôn ngoan.

Khôn ngoan vô giá, không gì có thể so sánh. Tác giả sách Khôn Ngoan giải thích, đồng thời cũng là lời chia sẻ chân thành: “Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất. Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể” (Kn 7:9-11). Rất rõ ràng, rất chi tiết. Có đức khôn ngoan là có tất cả. Đúng là kho tàng vô giá!

Biết vậy, tác giả Thánh Vịnh tha thiết cầu xin: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Niềm khao khát đó không thoáng qua, không tùy hứng, vui thì muốn, buồn thì thôi, nhưng là niềm khao khát cháy bỏng và không ngừng: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ, bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu” (Tv 90:14-15).

Tất cả là hồng ân, là lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta hoàn toàn bất xứng. Biết vậy là đầu mối khôn ngoan. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đoái thương, không thể làm ngơ, vì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót. Mọi nơi và mọi lúc, Ngài mong muốn chúng ta chân thành thân thưa: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:17).
Lối nhỏ là đường dẫn tới sự sống, lối rộng là đường dẫn tới sự chết. Đúng vậy, vì Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Ngài còn bảo chúng ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Chắc chắn Ngài không xúi dại chúng ta đâu. Chính sự tự do cũng có “phạm vi nhất định” kia mà, đâu phải tự do thì muốn làm gì thì làm, nếu vậy thế giới này loạn hết.

Trung ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Phụ nữ hỏi về sắc đẹp của họ, nếu nói họ đẹp thì họ vui, nhưng chỉ là ảo; nếu nói họ không đẹp thì họ buồn, thậm chí còn ghét người nhận xét. Nhạc sĩ, thi sĩ và văn sĩ hỏi tác phẩm của họ thế nào, nếu nói tác phẩm của họ hay thì họ cười; nếu nói tác phẩm của họ “chưa đạt” thì họ chán lắm, có khi họ bảo người nhận xét không biết nghệ thuật, không tinh tế. Chuyện đời là thế. Đôi khi người ta chỉ nịnh nhau để xã giao thôi. Mẹ hát, chẳng lẽ con lại nỡ lòng không khen hay? Trên Facebook hoặc các website khác, những cái “like” [thích] có thể cũng chỉ là giả tạo mà thôi, ít có người thật lòng. Vả lại, thấy Facebook có nhiều rác quá, toàn là chuyện ba sàm, vớ vẩn!

Với Thiên Chúa thì khác hẳn. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta phấn chấn, hạnh phúc, nhưng Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta đau nhói, nhức buốt – thường thì nhức nhiều hơn, vì “Lời Chúa phán là lời chân thật, như bạc nấu trong lò, đã bảy lần tinh luyện” (Tv 12:7). Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12). Tại sao như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13).

Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy” (Tv 119:9). Hằng ngày, theo kiểu Facebook, chúng ta có “like” [yêu] Chúa thật lòng hay cũng chỉ “che mắt thánh” đây? Chúa biết hết, vì Ngài “thấu suốt mọi tâm can” (Cv 15:8; Rm 8:27). Ước gì mỗi chúng ta luôn biết chân thành tâm nguyện: “Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa” (Tv 119:10).

Tìm kiếm Chúa thật khó. Khó không phải vì Chúa “trốn” chúng ta, mà tại chúng ta chưa thực sự muốn gặp Ngài. Muốn thì muốn, nhưng thực hành thì… hậu xét! Trình thuật Mc 10:17-22 “minh họa” điều này.

Một hôm, khi Đức Giêsu vừa lên đường, có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Ngài nói: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. Anh ta hãnh diện nói với Ngài rằng anh đã tuân giữ tất cả những điều đó từ thuở nhỏ.

Tuyệt vời lắm, tốt lành thật! Thật vậy, chính Đức Giêsu đã âu yếm đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Thôi rồi, bó tay rồi!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu đã lắc đầu tiếc cho anh ta lắm. Ngài rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Sư Phụ nói thế, các môn đệ sững sờ vì chẳng lẽ giàu là có tội sao? Căng thật đấy! Chưa hết ngạc nhiên thì họ lại nghe Thầy nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:25). Ui da! Căng thật chứ chẳng đùa đâu đấy!

Tất nhiên họ lại càng sửng sốt hơn nữa và rỉ tai nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”. Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện chứ ai mà trả lời được! Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “đâu cái điền” (điên cái đầu) và “nhức óc” lắm, nhưng Ngài vẫn nghiêm túc nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10:27).

Chắc chắn là thế. Có lẽ lúc này thực sự giá trị để chúng ta mượn lời Thánh Phêrô mà thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).

Người giàu khó vào Nước Trời vì ỷ giàu mà khinh người, dùng tiền bạc để ăn chơi sa đọa; còn người giàu mà biết chia sẻ với người nghèo, biết làm từ thiện, họ dễ vào Nước Trời thôi. Người nghèo mà chảnh thì cũng vô phúc, cho thì họ không lấy, thấy cũng không thèm xin, nhưng đồ người ta giấu kín thì rình mò, hở là rinh ngay, nghèo kiểu đó thì chắc chắn chẳng biết lối nào mà vào Nước Trời. Người nghèo như vậy là nghèo vô phúc, nghèo bạc phước, chứ chẳng có phúc chút nào ráo trọi!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chấp nhận những gì Ngài ban cho con theo lòng nhân hậu của Ngài, chứ không đòi hỏi, không se sua, không mưu mô,... Xin giúp con cố gắng đi trên “lối nhỏ” để được sự sống dồi dào của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU 2015

Con Cái Cô Đơn Vì Cha Mẹ

“Cha mẹ luôn cãi nhau nên con không có ai nói chuyện”, một đứa bé “than” như vậy. Cha mẹ thi thoảng xung khắc, bất đồng ý kiến hoặc cãi nhau là chuyện bình thường, đôi khi những xung khắc đó có thể “lành mạnh” và ích lợi vì giúp nhau hiểu thêm về những điểm khác nhau. Trong cơ thể cũng có loại vi khuẩn tốt và xấu, cũng có loại cholesterol tốt và xấu.
Đó là những lúc “xả” cho khỏi ấm ức. Thực phẩm bổ dưỡng mà không tiêu hóa thì sình bụng, hại sức khỏe. Ngay khi xung khắc thường xảy ra thì vợ chồng vẫn có thể yêu thương và quan tâm nhau nhiều. Nhưng nếu xung khắc xảy ra quá thường xuyên thì lại là vấn đề nghiêm trọng. Cái sảy nảy cái ung, chuyện bé xé ra to thì thực sự nguy hiểm cho hôn nhân và ảnh hưởng con cái. Cố gắng nhường nhịn nhau, và chuyện đã xong rồi thì thôi, đừng để bụng, đừng nhắc lại, đừng đay nghiến nhau. Con cái thấy cha mẹ bất hòa thì chúng chịu tác động xấu, bị ảnh hưởng tiêu cực về nhiều phương diện.
Con cái rất sợ cha mẹ bất hòa, tất nhiên chúng rất vui khi thấy cha mẹ hạnh phúc và tôn trọng nhau. Khi điều đó xảy ra quá thường xuyên hoặc quá căng thẳng, nên lưu ý mấy điểm này:
▪ Con cái không là “trọng tài”.
▪ Hãy tránh xa cuộc cãi vã của cha mẹ.
▪ Tránh ra nơi khác, đóng cửa phòng và làm riêng việc gì đó.
▪ Dù cha mẹ có thể gọi tên nhau, nói cộc cằn và làm tổn thương nhau, nhưng không có nghĩa là con cái có quyền làm vậy.
Khi cha mẹ mất tự chủ, không thể kiềm chế và làm tổn thương nhau, họ cần được người lớn khác giúp đỡ để kiềm chế. Vài điều khả thi đối với con cái:
▪ Nói chuyện với một người thân đáng tin cậy.
▪ Nói chuyện với giáo viên.
▪ Nói chuyện với một người bạn lớn.
▪ Nói chuyện với nhà tư vấn học đường, nhà trị liệu hoặc nhà tư vấn gia đình.
Những người này có thể biết cách giúp các gia đình gặp rắc rồi, kể cả việc vợ chồng đánh nhau. Họ có thể giúp đỡ bằng cách khuyên các thành viên gia đình biết lắng nghe nhau và nói chuyện về cảm xúc riêng mà không nổi tam bành, la hét, hoặc chửi rủa nhau.
Điều này có thể tác dụng, các thành viên gia đình có thể biết cách sống nhường nhịn và hòa thuận hơn. Chồng chén bát còn có lúc bị xô đổ thì gia đình nào cũng có những lúc xảy ra xung đột, dù lớn hay nhỏ, nhưng vấn đề quan trọng là biết phục thiện và sửa sai – càng sớm càng tốt.
Thánh Phaolô căn dặn: “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:21). Khi chúng thất vọng, chúng sẽ cô đơn vì cảm thấy không được yêu thương. Thánh Phaolô nói thêm: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Cha mẹ hạnh phúc thì con cái mới hạnh phúc, đó là hệ lụy tất yếu vậy.
TRẦM THIÊN THU

Thói đời

C'est la vieNgười ta thường thở dài và nói: “Đời là thế!”. Cũng với ý đó, người Pháp nói: “C’est la vie!”, còn người Anh nói: “It’s life!”. Khi nói câu này, có lẽ người ta đã nhận ra điều gì đó bí ẩn mà không thể hiểu và “đành” chấp nhận, dù muốn hay không muốn, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.

Cậu bé Giêsu nghèo ở xóm lao động tại làng Nadarét càng thêm tuổi càng thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa với Thiên Chúa (Lc 2:40). Còn chúng ta, dù không hoàn hảo, nhưng càng có tuổi cũng càng thêm kinh nghiệm – dù ít hay nhiều, nhưng cũng chỉ nói được: “Đời là thế!”. Người ta gọi đó là thế thái nhân tình, hay nói ngắn gọn là “thói đời”.

Những người trung niên trở lên hẳn là có thể từng nghe đến tên Mặc Thế Nhân (*), nhất là những người yêu thích âm nhạc, hoặc không biết ông là tác giả một số ca khúc phổ biến (ngày nay vẫn được hát) thì cũng đã từng nghe hoặc hát nhạc của ông. Một trong số ca khúc nổi tiếng của ông là ca khúc “Thói Đời”. Một tựa đề đầy “chất đời”.

Ca khúc này nói về cái “đời là thế” của thế thái nhân tình đầy bạc bẽo! Ca từ giản dị mà thâm thúy, giai điệu không cầu kỳ mà vẫn “đẹp” và tạo sự lắng đọng trong tâm hồn.

Đoạn MỘT: “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người. Trong thói đời cười ra nước mắt, xưa trắng tay gọi tên bằng hữu, giờ giàu sang quên nghĩa tâm giao, còn gian dối cho nhau”.

NS Mặc Thế Nhân viết ca khúc này khi ông còn trẻ, thế mà ông đã có “tầm nhìn” vừa sâu vừa rộng để có thể “nghiệm” được “sự đời” như thế. Sinh ra ai cũng bật khóc như “thấy trước” được “đường thương đau đầy ải nhân gian” vậy! Ông xác định: “Ai chưa qua chưa phải là người”, như một lời tiên tri vậy. Quả thật, chính đau khổ mới khiến người ta “nên người”, chính gian nan vất vả mới làm người ta thành nhân, chứ không phải sự giàu sang sung sướng.

Ông nhận xét rất thực tế: “Trong thói đời cười ra nước mắt, xưa trắng tay gọi tên bằng hữu, giờ giàu sang quên nghĩa tâm giao, còn gian dối cho nhau”. Cuộc đời có những tình huống khiến người ta “cười ra nước mắt”. Không chỉ “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”, mà người ta còn giả dối và lọc lừa nhau bằng mọi thủ đoạn bỉ ổi, như ngày nay người ta mỉa mai: “Lương tâm không bằng lương tháng”.

Đoạn HAI: “Người yêu ta rồi cũng xa ta nên chung thân ta giận cuộc đời. Đôi mắt nào từng đêm buốt giá, bên chiếu chăn tình xa nhịp thở, tiền đổi tay khi rũ cơn mê để chua xót trên lối về”.

Ngay cả trong tình yêu cũng vậy thôi: “Người yêu ta rồi cũng xa ta nên chung thân ta giận cuộc đời”. Người yêu, vợ hoặc chồng còn bỏ ta thì còn ai không bỏ ta? Nghĩa là ai cũng bỏ ta, dù “bỏ” theo nghĩa đen hay nghĩa bóng. Vì thế mà người bị tình phụ có thể “hận đời”, thậm chí có những người tuyệt vọng đến nỗi quyên sinh. Buồn lắm, buồn đến nỗi “đôi mắt từng đêm buốt giá, bên chiếu chăn tình xa nhịp thở”, xót xa lắm, vì “tiền đổi tay khi rũ cơn mê” rồi thì chỉ còn một mình “chua xót trên lối về”. Đau lắm!

Đoạn BA: “Rượu trần ai gội niềm cay đắng, những suy tư in đậm đường hành, mình còn ai đâu để vui khi trót sa vũng lầy nhân thế, cỏ ưu tư, muộn phiền nên xám môi”.

Đau lòng quá nên người ta muốn tìm quên trong men rượu: “Rượu trần ai gội niềm cay đắng”, mặc cho “những suy tư in đậm đường hành”. Bởi vì “mình còn ai đâu để vui khi trót sa vũng lầy nhân thế”. Chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần sa vào “vũng lầy nhân thế”, dù mức độ khác nhau và mỗi “vũng” cũng khác nhau. Chính lúc này mới cần “bản lĩnh sống”. Nếu thiếu bản lĩnh này, người ta sẽ sa đà vào nhiều thứ nguy hiểm, nguy hiểm đến nỗi mình cũng khó biết mình đang bị nguy hiểm. Con người quá yếu đuối. Người vui cảnh cũng vui, người buồn cảnh cũng buồn, thế nên “cỏ ưu tư” – tức là mình ưu tư mà thấy cỏ cũng như đồng cảm, đến nỗi “muộn phiền nên xám môi”. Suy nghĩ quá và buồn quá nên mất ngủ, mất ngủ nên mắt thâm quầng, tất nhiên “xám môi” là lẽ đương nhiên.

Đoạn BỐN: “Bạn quên ta tình cũng quên ta, nên chân đêm thui thủi một mình. Soi bóng đời bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngời lên tròng mắt, đoạn buồn xa ta đã đi qua ngày vui tới ta vẫn chờ”.

Khi chúng ta sa cơ thất thế, chẳng ai còn muốn quen ta chứ nói chi muốn gần ta. Một mình bước đi lầm lũi, đi không ai biết, về chẳng ai hay: “Chân đêm thui thủi một mình”. Mình nhìn ta, mình nhìn bóng, tự độc thoại giữa bốn bức tường vắng lặng: “Soi bóng đời bằng gương vỡ nát”, thế nên nhiều lúc “nghe xót xa ngời lên tròng mắt”, và con người vẫn muốn thoát khỏi vũng lầy đó: “Đoạn buồn xa ta đã đi qua ngày vui tới ta vẫn chờ”. Vì thế mà người ta có thể gượng đứng dậy mà tiếp tục sống…

Thói đời là thế. Xưa nay vẫn vậy. Chúng ta không thể làm gì được. Cố gắng chấp nhận để tâm hồn thanh thản, chấp nhận để biết mình hữu hạn và cố gắng sống yêu thương nhiều hơn. Cứ mỉm cười mà nói: “Đời là thế!”. Tất nhiên, chúng ta phải cần sự trợ giúp của Đấng Vô Hạn, Đấng đó có thể cứu mình, có thể biến thất vọng hoặc tuyệt vọng trở thành hy vọng. Đấng đó là Thiên Chúa. Không ai thấy Thiên Chúa, nhưng qua Kinh thánh, chúng ta đã biết rõ Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, chắc chắn ai thật lòng tin vào Đức Giêsu và thực hành điều Ngài truyền dạy thì được cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

Quả thật, nếu chỉ trông mong vào con người thì chúng ta chắc chắn sẽ hoàn toàn tuyệt vọng. Vì thế, chúng ta luôn “như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn cũng trông mong được gần Chúa” (Tv 42:2). Đức tin quan trọng hơn phép lạ, thế nên rất cần tin tưởng vào Lòng Chúa Thương Xót, vì “chẳng ai trông cậy Chúa mà lại phải nhục nhằn tủi hổ” (Tv 25:3). Chắc chắn là vậy: “Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27:10).

Chúng ta quen nghe nói về “Phẩm hàm Men-ki-xê-đê”. Nhưng Men-ki-xê-đê là ai? Thánh Phaolô cho biết: “Ông Men-ki-xê-đê (tên này nghĩa là Vua Công Chính) là vua Sa-lem, nghĩa là Vua Bình An. Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế” (Dt 7:2-3). Men-ki-xê-đê chỉ là người tứ cố vô thân, thế nhưng lại được Thiên Chúa xót thương muôn đời.

Biết như thế, chúng ta càng thêm vững tin vào Thiên Chúa. Chính điều này khả dĩ củng cố đức tin, dù bạn đang là người cô đơn nhất thế gian này. Thói đời là thế, thế thái nhân tình là vậy, nhưng đừng quan ngại, vì Thiên Chúa yêu bạn vì “bạn là bạn”, Ngài vẫn mãi nhân từ và trọn tình thương với bạn đến muôn đời! (1 Sbn 16:345; 1 Sbn 16:41; 2 Sbn 5:13; 2 Sbn 7:3; 2 Sbn 7:6; 2 Sbn 20:21; 1 Mcb 4:24; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118 1-4 & 29; Tv 136:1-4).

TRẦM THIÊN THU

Nghe ca khúc “Thói Đời”: http://www.youtube.com/watch?v=e2hMgoXu1O0

__________________________

MacTheNhan(*) Mặc Thế Nhân tên thật là Phan Công Thiệt, sinh năm 1939 tại Gò Vấp (Saigon), thuộc gia đình trung lưu. Về bút danh Mặc Thế Nhân, ông lý giải có nghĩa là “góp giọt mực cho đời” chứ không theo nghĩa đen như người ta lầm tưởng là “mặc kệ nhân gian”. Ông còn hai bút danh khác là Phan Trần và Nhã Uyên. Được biết tới nhiều nhất là 10 ca khúc mang tựa đề Tương Tư của ông, trong đó nổi bật hơn cả là bài “Tương Tư 4” được trình bầy bởi nhiều giọng ca nam nổi tiếng như Elvis Phương, Sĩ Phú,... Ngoài những bản tình ca, ông còn sáng tác các nhạc phẩm mang âm điệu quê hương. Không chỉ là nghệ sĩ, ông còn nghiên cứu về tâm linh.

Theo Tây học, ông đã có một tâm hồn nghệ sĩ ngay từ thuở còn thơ ấu. Bắt đầu học nhạc lúc 17 tuổi với các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Hùng Lâm, Nguyễn Cầu, Nguyễn Quý Lãm, Xuân Bình, tại trường Ca Vũ Nhạc Phổ thông. Ròng rã hai năm trời thụ mãn, ông ra trường và gia nhập ban Hoa Niên. Ngoài ra ông còn hợp tác với ban đàn dây Xuân Bình để trình diễn ở đài phát thanh. Thời gian này ông đã hoạt động văn nghệ nhiều nhất.

Nhạc phẩm đầu tay của ông là bản “Trăng Quê Hương” (1958), sau đó là bản “Vui Tàn Ánh Lửa” (1959). Ông cũng đã dạy nhạc lý cho một trường tư thục tại Saigon và rèn luyện cho một vài ca sĩ nổi tiếng thời đó. Ông còn là một ký giả tân nhạc kịch trường, cộng tác với nhật báo Lẽ Sống và tuần báo Bình Dân, với các bút hiệu Mộng Thu và Giang Ái Sĩ.

Năm 1960, ông đã xuất bản nhạc phẩm “Rồi Một Ngày”, đó là tiếng nói lo âu của một đôi tim trong lứa tuối yêu đương, lúc nào cũng lo sẽ có ngày phải xa cách. Tiếp theo là các nhạc phẩm Xích Lại Gần Anh Tí Nữa, Thế Hãy Còn Xa Lắm, và Tiếng Vạc Sầu Đêm. Ngoài việc sáng tác nhạc, ông còn là một kịch sĩ và là một Khẩu cầm thủ hữu hạng lúc bấy giờ.

Ngoài các nhạc phẩm mang nặng tính chất lãng mạn trữ tình, ông còn sáng tác những nhạc phẩm ca tụng kiếp sống hải hồ với những chuyện tình thơ mộng như trong các ca khúc Người Em Hải Đảo, Sầu Đất Tổ, Sầu Nhân Thế, Cho Vừa Lòng Em, Đừng, Ngày Xuân Vui Cười, Trả Lại Anh,…

Cuộc Thi
Cuộc đời có rất nhiều cuộc thi, nhiều dạng và nhiều mức độ. Trong đời học sinh và sinh viên, mỗi năm vài lần thi. Khi đi làm cũng có nhiều dạng thi. Nói chung, đời người có rất nhiều cuộc thi, cả ở trường học và ở trường đời, cuộc thi nào cũng khó, nhưng có lẽ khó nhất là thi ở trường đời.
Các cuộc thi được tổ chức là để tìm kiếm các tác phẩm hay, chất lượng cao, và cũng là dịp phát hiện các nhân tài, các tài năng thực sự. Xưa nay đều có rất nhiều cuộc thi, từ nhỏ tới lớn, từ bình thường tới quan trọng, từ phạm vi nhỏ tới phạm vi lớn. Các cuộc thi có thể có chủ đề tự do hoặc có chủ đề rõ ràng, số lượng có thể chỉ được dự thi 1 bài, 2 bài, 5 bài, thậm chí là “ít nhất 50 bài” (như cuộc thi thơ “Tác Phẩm Đầu Tay” đang được tổ chức tại Hoa Kỳ – http://www.dutule.com/), hoặc không hạn chế số lượng – tùy mỗi cuộc thi.
Về giải thưởng cũng khác nhau. Có cuộc thi chỉ có MỘT giải, không có các giải khác; thường thì có các giải I, II, III và khuyến khích, hoặc giải A, B và C và khuyến khích.
Trong cuộc thi có các thí sinh (người thi) và ban giám khảo (người chấm thi). Vấn đề quan trọng là ban giám khảo, nghĩa là phải có công tâm, phải khách quan và công bằng, không thể vì “quen biết” hoặc bất cứ lý do nào khác. Đã gọi là cuộc thi thì phải minh bạch, không thể “phe cánh”, tức là phải ngiêm túc áp dụng theo luật của Thiên Chúa, Đấng nhất mực công minh và chính trực: “Thiên Chúa không vị nể ai” (Mt 22:16; Mc 12:14; 1 Pr 1:17).
Cụ thi hào Nguyễn Du so sánh: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Còn cụ Đồ Chiểu xác định: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Điều đó cho thấy ai cũng phải có cái Tâm, đặc biệt đối với những người sáng tác và người chấm thi. Lời nói dễ qua tai (trừ trường hợp thu âm và thu hình), nhưng những gì viết ra thì có thể còn hoài, giấy mực rõ ràng từng dấu chấm, dấu phẩy, ai cũng có thể đọc được tư tưởng của người viết.
Việc gì cũng có nỗi khổ đặc trưng. Và “số phận” của các tác phẩm cũng không ngoại trừ. Tác giả VIẾT được một bài đã là khó, nhưng có LÁCH được hay không lại là chuyện khác, càng khó hơn!
CUỘC THI ĐỜI THƯỜNG
Ngày xưa, thời phong kiến, người ta tổ chức các kỳ thi Hương, thi Hội, và thi Đình.
   1. Thi Hương là cuộc thi được tổ chức tại các trường nhiều nơi (từ “hương” nghĩa là khu vực quê hương của người thi). Nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng. Ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi. Theo quy định từ năm 1434, thi Hương có 4 kỳ: kỳ I gồm kinh nghĩa và thư nghĩa; kỳ II gồm chiếu, chế, biểu; kỳ III gồm thơ phú; kỳ IV gồm văn sách.
Thi qua ba kỳ thì đỗ Tú Tài, trước năm 1828 gọi là Sinh Đồ, dân gian gọi là Ông Đồ hoặc Ông Tú. Thông thường, mỗi khoa đỗ 72 người. Tuy là thi đỗ nhưng thường không được bổ dụng. Nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử Nhân. Đỗ lần thứ nhất được gọi là Ông Tú, lần thứ hai vẫn đỗ Tú Tài thì gọi là Ông Kép, lần thứ ba vẫn đỗ như thế thì gọi là Ông Mền.
Thi qua cả 4 kỳ thì đỗ Cử Nhân, trước năm 1828 gọi là Hương Cống – Ông Cống, Ông Cử. Mỗi khoa đỗ 32 người, được bổ dụng làm quan ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được làm quan huyện, dần dần rồi mới thăng quan tiến chức. Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên.
   2. Thi Hội là khoa thi ba năm một lần ở cấp trung ương do bộ Lễ tổ chức. Từ đời Lê Thánh Tông, thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, và Dậu; thi Hội vào năm sau là Sửu, Mùi, Thìn và Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Hoa). Khoa thi này được gọi là “Hội thi cử nhân” hoặc “Hội thi cống sĩ”. Các cử nhân và cống sĩ là những người đã đỗ kỳ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi, do đó gọi là thi Hội.
   3. Thi Đình là kỳ thi cao nhất, được tổ chức ngay tại sân triều đình của nhà vua. Địa điểm thi là một cái nghè lớn, thế nên người ta thường gọi những người vào ứng thí là các Ông Nghè. Nhà vua trực tiếp ra đề thi. Sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm số, chính nhà vua tự tay phê người nào đỗ. Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên.
Theo số điểm, người đỗ được xếp vào 3 hạng gọi là Tam Giáp:
   – Bậc 3: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp (Đồng Tiến Sĩ Xuất Thân – dân gian gọi là Ông Tiến sĩ)
   – Bậc 2: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến Sĩ Xuất Thân, Hoàng Giáp – tức là Ông Hoàng)
   – Bậc 1: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến Sĩ Cập Đệ – gồm có ba thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam Khôi: Đứng đầu là Trạng Nguyên (Ông Trạng), hạng nhì là Bảng Nhãn (Ông Bảng), hạng ba là Thám Hoa (Ông Thám).
Khi chấm bài thi, nếu chủ khảo (trong đó có cả vua) thấy người đậu thủ khoa không đạt được điểm số tối thiểu để gọi là Trạng thì các khoa thi này sẽ không có Trạng Nguyên, thủ khoa giữ cấp Đình Nguyên. Đó là trường hợp của Lê Quý Đôn, ông đỗ cao nhất nhưng chỉ được cấp vị Đình Nguyên Bảng Nhãn.
Ngày nay, cũng có các cuộc thi văn hóa tương tự – thi tú tài, cao đẳng, đại học,… Ngoài ra, còn có những cuộc thi phổ biến khác – thi về thể thao, âm nhạc, thi ca, hội họa, điêu khắc,… Các cuộc thi này có cả trong xã hội và tôn giáo. Các cuộc thi này thường được tổ chức hằng năm, mỗi năm có hàng chục cuộc thi. Tôn giáo ít có các cuộc thi này, nhưng vài năm gần đây, một số nơi đã và đang có các cuộc thi như vậy – cả Công giáo và Tin lành.
Có những cuộc thi thể hiện sự minh bạch ngay từ đầu: Không ghi tên tác giả hoặc bất cứ điều gì khác vào tác phẩm dự thi, chỉ ghi một mã số tự chọn (ví dụ: X3591 hoặc U5482), và phải dùng Font chữ Times New Roman, với size chữ 12. Có những cuộc thi rọc phách, giám khảo không biết của ai. Mà cũng có thể chưa chắc đủ mức tin cậy, vì ai làm chứng “không bị lộ”? Nhưng ít ra cũng có thể tạm tin. Thực tế cho thấy đã có nhiều lần lộ đề thi trong những kỳ thi tuyển sinh (tốt nghiệp, cao đẳng, đại học) tại Việt Nam đấy thôi!
Có những cuộc thi không theo các quy tắc đó, và thường có “phe cánh” với nhau. Một số cuộc thi văn thơ và nhạc của tôn giáo vẫn bị cái lỗi sơ đẳng này, dĩ nhiên đó là lỗi của ban giám khảo. Thi viết về Chúa, Mẹ và các Thánh mà ban giám khảo lại không hề có công tâm, nghĩa là thiếu minh bạch và không công bình. Nói thẳng ra là vẫn “phe cánh”. Các cuộc thi như vậy, cả đời và đạo, không hề có giá trị đúng mức, chắc chắn không có uy tín.
Có những cuộc thi có số người dự thi nhiều, vài trăm hoặc xấp xỉ một ngàn. Trong đó chỉ chọn 10, 12 hoặc 15 giải thì giá trị về năng lực sẽ cao. Nhưng các cuộc thi chỉ 50, 30, hoặc 20 người dự thi mà chọn 10 thì chắc chắn mức độ giá trị về năng lực giảm rất nhiều. Nhân tài mà chưa chắc đã TÀI, thậm chí có thể là TAI. Giám khảo lại “phe cánh” nữa thì quả là TAI thật – tai ách, tai ương, tai họa, nhân tai,... Dạng này vẫn xảy ra (đã, đang, và sẽ) ở các cuộc thi, cuộc thi ngoài đời đã đành mà cuộc thi trong đạo cũng chẳng hơn gì. Buồn biết bao!
Cuộc thi có thể là cuộc thi lớn hoặc nhỏ. Ý nói “lớn” ở đây không phải là giá trị vật chất, mà là uy tín và ở phạm vi rộng (toàn quốc hoặc quốc tế). Còn “nhỏ” là không uy tín và ở phạm vi hẹp (nhóm, công ty, xã, huyện,…) chứ không lệ thuộc vật chất. Tỷ lệ 1 đối 50 chắc chắn khó hơn 1 đối 10. Đó là một dạng “lớn”. Có những cuộc thi “lớn” (uy tín và tầm cỡ quốc tế) nhưng giá trị vật chất lại không nhiều, nhưng các cuộc thi như vậy vẫn thực sự “lớn”. Có những cuộc thi “lớn” cả về tầm cỡ, cả về vật chất (toàn quốc và giải thưởng lên tới cả trăm triệu VNĐ). Và tất nhiên, có những cuộc thi vừa nhỏ vừa keo, chẳng đáng gì mà “chảnh”. Dạng này ít người dự thi, vậy những người đạt giải có xứng đáng là nhân tài hay không? Ngại... trả lời ghê đi!
CUỘC THI TÂM LINH
Trong đời sống tâm linh, cách riêng là trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cũng vẫn có những cuộc thi đầy cam go.
Thánh Phaolô đã từng là “thí sinh” trong cuộc thi như vậy. Với kinh nghiệm dày dạn về thi cử, ông muốn chân thật chia sẻ cho hậu thế: “Trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cựcphục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:24-27). Cái vế sau giới từ “kẻo mà” mới đáng quan ngại! Chắc chắn cuộc thi nào cũng gian nan, phải khổ luyện để có thể đấu trí, đấu tài và đấu sức.
Về cuộc thi tâm linh, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên: “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (1 Tm 6:12).
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể bằng cách đưa ra các hình ảnh cụ thể của đời thường: “Trong nghề binh, không ai vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự; có thế mới đẹp lòng người đã tuyển mộ. Người tham dự điền kinh cũng vậy, không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ. Còn người nông dân làm việc vất vả thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi” (2 Tm 2:4-6). Luật là quan trọng, nhưng luật phải vì con người.
Ước gì mỗi chúng ta khả dĩ nói được như Thánh Phaolô: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4:7). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần cảnh giác với chính mình: “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức” (Rm 12:3). Nghĩa là đừng ảo tưởng, và nếu có chút tài mọn thì cũng đừng vênh váo, khinh người. Tội kiêu ngạo là đầu mối các tội khác, khủng khiếp lắm!
Trong cuộc thi tâm linh, ai cũng là thí sinh, vì thế mà “đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1) với bất cứ ai. Tại sao? Vì “nếu anh em đối xử thiên tư thì anh em phạm một tội và bị Lề Luật kết án là kẻ vi phạm” (Gc 2:9). Lạy Chúa tôi!
Dù là thí sinh hoặc giám khảo, đặc biệt là giám khảo, đu672ng quên điều này: “Thiên Chúa không thiên tư bất cứ ai (x. 1 Ga 4:7-10). Còn Thánh Phaolô xác định: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3:27-28).
Là thí sinh tham dự cuộc thi tâm linh, chúng ta hãy cùng nhau thầm nhủ như Thánh Phaolô: “Tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:13-14).
VĨ NGÔN
Về các tác phẩm ngoài đời (ca khúc, thơ, truyện,…), mỗi thứ đều có “số phận” hẩm hiu nhất định. Thật lạ, theo kinh nghiệm riêng, có những ca khúc tôi gởi cộng tác bình thường thì không được dùng (có thể hiểu là “bị chê”), nhưng khi tôi gởi dự thi thì lại đoạt giải. Thật khó hiểu! Tất nhiên, là con người thì không thể tránh khỏi “thất tình” (hỉ, nộ, ai, lạc,…), nhưng cốt yếu phải làm sao đừng có định kiến. Cần lắm sự công tâm!
Trong một cuộc vận động sáng tác ca khúc, một thành viên hội đồng sơ tuyển và chung tuyển đã nói một câu “xanh rờn” thế này: “Nhiều tác phẩm hay nhưng không được giải cao vì phần thể hiện của ca sĩ trong bản ghi âm gửi ban tổ chức chưa đạt. Đây là một trong những điều đáng tiếc thường gặp ở các cuộc sáng tác hiện nay.

Một câu nói khiến nhiều người không đồng tình, vì nói như vậy có nghĩa là ban giám khảo chưa đủ trình độ thẩm định một ca khúc bằng cách “đọc nhạc” (xem bản nhạc). Đúng là “hết ý” luôn! Có một số ý kiến thế này:

Quang Huy (truonglequanghuy@yahoo.com.vn): “Theo tôi nghĩ, nếu đánh giá một ca khúc hay, có chất lượng tốt cả về giai điệu và ca từ thì về phía ban giám khảo chỉ đọc bản ký âm thì đã rõ. Xét về góc độ thu âm và phối khí đó chỉ là một phần đưa tác phẩm thêm thăng hoa và nổi bật lên mà thôi. Theo tôi, để cho tất cả những ai đam mê sáng tác và có thể tham dự các cuộc thi sáng tác lần sau, tôi nghĩ ban giám khảo chỉ động viên nộp thêm phần demo thôi. Mục đích là để tạo điều kiện cho những tác giả chưa có điều kiện thuê nhạc sĩ thu âm phối khí cho đứa con tinh thần của mình, vừa là mang tính động viên cho tác giả”.
Quang Huy (gamhong09@yahoo.com): Theo tôi nghĩ, nếu đánh giá tác phẩm hay hoặc chưa chất lượng, điều quan trọng nhất đó là ca từ và giai điệu. Còn những phần còn lại như hòa âm phối khí ca sĩ thể hiện đó chưa hẳn là quan trọng. Bởi vì đây là cuộc thi sáng tác ca khúc... Tôi nghĩ chỉ cần ban giám khảo nhìn bản ký âm thì đã biết tác phẩm đó có chất lượng về ca từ và giai điệu rồi. Theo ý kiến cá nhân tôi, nếu lần sau tổ chức thì nên khuyến khích có bản demo thôi. Đó cũng là dành cho những người có sáng tác hay mà chưa có điều kiện thu âm cũng có thể tham gia”.
Trịnh Công Hoài (hoaitrinhkt@gmail.com): “Nhiều tác phẩm hay nhưng không được giải cao vì phần thể hiện của ca sĩ trong bản ghi âm gửi ban tổ chức chưa đạt. Đây là một trong những điều đáng tiếc thường gặp ở các cuộc sáng tác hiện nay”. Tôi không đồng ý với ý kiến trên vì tôi nghĩ rằng những tác giả trẻ ở các tỉnh thành không có cơ hội và điều kiện để tiếp xúc với những giọng ca phù hợp với bài hát mà mình dự thi cuộc thi này là cuộc thi sáng tác ca khúc… chứ không phải cuộc thi tiếng hát… thì tại sao vì giọng hát mà có thể cho cả bài hát là không có chất lượng? Thật vô lí!”.
Dục Tử xác định: “Biết đúng mà không theo là dở, biết sai mà không sửa là mê”. Không công tâm là không thực hiện công lý và không hành động vì công ích. Giáo huấn Xã hội Công giáo ghi: “Phải phục vụ công ích một cách đầy đủ, chứ không theo những chủ trương giản lược mà một số dân tộc đưa ra nhằm lợi ích riêng cho mình; trái lại, phải xây dựng công ích dựa trên một logic sẽ đưa người ta tới chỗ chịu trách nhiệm nhiều hơn. Công ích là điều đáp ứng bản năng cao cả nhất trong số các bản năng của con người, nhưng đó cũng là một giá trị rất khó thực hiện vì đòi hỏi phải có năng lực và cố gắng liên tục trong việc mưu cầu ích lợi cho người khác, như thể đó là ích lợi của bản thân mình” (Tóm lược GHXHCG, số 167, tr. 135).
Chuyện thi cử cũng có những điều “rắc rối”. Có những cuộc vận động sáng tác ca khúc mà buộc người dự thi phải kèm CD. Giám khảo không thể “đọc nhạc” (xướng âm) sao mà phải chấm giải bằng cách nghe? Vậy thì rất thiếu độ chính xác! Có những cuộc thi người ta nhìn tên tác giả mà “định đoạt”, đây là kiểu tệ hại nhất.
Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Sự thật luôn phũ phàng. Người ta không thích “thuận ngôn” vì nó luôn gây “nghịch nhĩ”. Dám thay đổi là một dạng can đảm. Ngành nghề nào cũng cần có “cái đức”. Ngành y gọi là y đức. Còn nghề báo gọi là gì? Lâu nay người ta phê phán nhiều về chuyện y đức, còn cái đức của nghề báo thì sao? Câu hỏi khó trả lời hay không muốn trả lời?
Chẳng hay gì những người xu nịnh, tâng bốc, vì “giá áo, túi cơm” mà sẵn sàng đánh mất lương tri chính trực. Danh nhân W. Goethe thẳng thắn nói: “Ai thẳng thắn với bản thân và thẳng thắn với người khác thì bao giờ cũng có phẩm chất vô cùng quý báu của những tài năng vĩ đại”.
Về cái tâm trong việc viết lách, nhà văn Nam Cao khẳng định: “Cẩu thả trong mọi nghề đều khốn nạn nhưng cẩu thả trong văn chương là khốn nạn nhất”. Vincent Van Gogh cũng khẳng định: “Nghệ thuật không nước đôi. Nghệ thuật không nửa vời. Nghệ thuật không san sẻ. Hoặc bạn là nghệ sĩ, hoặc không. Đã làm nghệ thuật thì đừng tham vọng gì khác. Đã có tham vọng gì khác thì thôi nghệ thuật”.
Đó là chuyện đời. Chuyện “nhà đạo” cũng không khá hơn bao nhiêu! Có những báo in bài, mà báo in thì có bán và có doanh thu, nhưng lại không hề nhắc gì tới “nhuận bút”, còn các website thì cũng đòi “độc quyền” bài viết của tác giả nào đó. Những người viết bài về đạo là những người “vô lương” (nghĩa là không có lương), ít nhiều gì cũng vì yêu mến Chúa mà rao truyền về Chúa. Như vậy, nếu một bài đăng ở nhiều website, thiết tưởng là điều tốt, vì số người đọc được bài đó sẽ nhiều hơn. Bởi lẽ có số người này “ưa” website này, số người khác “thích” website khác, không hẳn họ có chung ý thích. Chia sẻ trên nhiều website cũng là một cách “loan báo Tin Mừng khắp thế gian” (x. Mc 16:15). Vậy sao lại đòi “độc quyền”?
Năm 1976, bài hát “Mùa Xuân Đầu Tiên” của Ns Văn Cao được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút 100 rúp. Ông phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông nói thật với con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”. Câu nói của ông nghe sao “chua chát” quá!
Thấy điều “trái tai gai mắt” mà không nói thì người ta lấn lướt, đè đầu đè cổ, nhưng nói ra thì lại bị người ta ghét. Quả thật, ngòi bút cũng có những “nỗi niềm khó nói” rất đặc trưng, đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” vậy!
Về các tác phẩm Công giáo, vấn đề xin cấp Nihil Obstat và Imprimatur cũng vẫn là vấn đề nhiêu khê, nghĩa là cũng không thoát khỏi lưới “phe cánh”. Quen thân khác, xa lạ khác. Buồn biết bao! Dạng này không là thi nhưng có gì đó “dính líu” chuyện thi cử. Đã đành rằng con người khó thoát khỏi ý riêng và thiên kiến, nhưng phải làm sao đừng quá đáng. Cần lắm sự công tâm!
Về “nhà đạo”, làm gì người ta cũng đổ lỗi cho Chúa: “Chúa sẽ trả công”. Thế là xong! Chúa cũng bị oan. Như vậy có khác gì Philatô rửa tay để minh chứng mình vô tội trong vụ án xét xử Đức Kitô? Sự thật quá phũ phàng! Như vậy làm gì có công lý? Không có công lý sẽ không có hòa bình và nhân quyền, và chắc chắn còn kéo theo các hệ lụy khác nữa…
Ước gì mỗi chúng ta luôn ghi nhớ lời Thánh Phaolô: “Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên vị” (Cl 3:25).
TRẦM THIÊN THU

 

DongCongNet October 9, 2015

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)