Suy Nệm của Lm. Hương

 

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA GIÊSU

NĂM C-2022


LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA GIÊSU
THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT
St 14,18-20; 1 Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17


1- Tình mẹ như tình Chúa

Trong vụ động đất kinh hoàng ở Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011, có một câu chuyện hết sức xúc động được lan truyền khắp thế giới mạng về một phụ nữ trẻ đã hy sinh thân mình để che chở và bảo vệ đứa con nhỏ của cô. Câu chuyện này khiến nhiều người phải thán phục trước tình mẫu tử thiêng liêng và tinh thần dũng cảm của người Nhật.

Số là khi lực lượng cứu hộ tìm thấy thi thể của một phụ nữ trẻ qua khe tường nhà sụp đổ. Nhưng tư thế cô như một người đang quỳ gối cầu nguyện, và hai tay đỡ lấy một vật gì đó. Họ tìm cách dỡ bỏ đống đổ nát ra. Bỗng nhiên một người phát hiện một em bé 3 tháng tuổi còn sống, được bọc trong một chiếc chăn hoa dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ này đã hy sinh để cứu con mình khi ngôi nhà sập. Sau khi mở tấm chăn, bác sĩ nhìn thấy một điện thoại di động bên trong và có một tin nhắn: “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con.” Tin nhắn này được loan truyền khắp nơi.

Từ câu chuyện này, tôi muốn chúng ta suy nghĩ về lòng thương xót Chúa nơi Bí tích Thánh Thể. Bởi vì có một điều gì đó tương tự trong chuyện này và câu chuyện về Thánh Thể: chính là tình yêu, là lòng thương xót, là sự hy sinh vì người mình yêu mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta như người mẹ đã làm cho con mình.

2- Thánh Thể, tột đỉnh của lòng thương xót

Trong Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương xót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết: “Chúa Giêsu Kitô là dung mạo của lòng thương xót Chúa Cha. Những lời này có thể tổng hợp sâu sắc mầu nhiệm của Đức tin Kitô giáo. Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nadarét, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), sau khi đã mạc khải danh Người với Môsê như là “một Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6), đã không ngừng thể hiện, bằng nhiều cách khác nhau trong suốt lịch sử, bản tính Thiên Chúa của Người. Vào “thời viên mãn” (Gl 4,4), Chúa Cha đã sai Con Một mình xuống thế gian, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, để biểu lộ tình yêu của Người cho chúng ta một cách dứt khoát. Bất cứ ai nhìn thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Chúa Giêsu thành Nadarét, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Người đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (MV số 1).

Nhưng tột đỉnh của tình yêu và lòng thương xót chính là việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể và bước vào cuộc tử nạn. Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp tục: “Khi Người thiết lập bí tích Thánh Thể như một tưởng niệm đời đời về chính mình và hy lễ vượt qua của mình, Chúa Giêsu đã đặt một cách biểu tượng hành động tối cao này của Mạc khải trong ánh sáng lòng thương xót của Người. Cùng trong một bối cảnh của lòng thương xót như thế, Chúa Giêsu đã bước vào cuộc thương khó và cái chết của Người, với ý thức về mầu nhiệm cao cả của tình yêu mà Người sẽ thành toàn trên thập tự giá” (số 7).

Quả thế, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của lòng thương xót Chúa. Tin Mừng thánh Gioan minh chứng điều đó: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta nên Người muốn cho chúng ta được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người muốn ở với chúng ta luôn mãi (x. Mt 18,20). Người yêu chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1), đến nỗi hiến mạng sống vì chúng ta (x. Ga 15,13). Người muốn chúng ta nên một với Người bằng cách ban chính Thịt và Máu Người làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu quả quyết: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53-54).

Vì thế, khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta đón nhận chính Thiên Chúa. Chúng ta được nuôi sống bằng chính sự sống của Người. Cũng như khi tiếp nhận thức ăn vào trong bụng, chúng ta tiêu hóa thức ăn thành dinh dưỡng nuôi sống mình. Cũng thế, khi rước Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Chúa; chúng ta có sự sống của Thiên Chúa; chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Điều này lý giải tại sao chúng ta chỉ rửa tội một lần, nhưng chúng ta cần phải đón nhận Bí tích Thánh Thể nhiều lần. Bởi lẽ, Thánh Thể nuôi dưỡng chúng ta lớn lên, tăng sức mạnh, làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu mỗi ngày. Như thế, sau khi rước lễ, chúng ta có thể dám nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)” (Gl 2,20).

Khi nói về sự biến đổi nhờ Thánh Thể, Nicholas Cabasilas viết: “Chúa Kitô hiến mình trong chúng ta và tan biến mình với chúng ta, nhưng Người thay đổi và biến đổi chúng ta nên giống Người, như một giọt nước nhỏ được biến đổi bởi được đổ vào trong biển cả của dầu thơm.”

Với một cách diễn tả khác trong tập thơ về Thánh Thể tựa đề Khúc hát về Thiên Chúa Ẩn Dấu, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho rằng con người mới, đời sống mới này được thực hiện nhờ Chúa Kitô Thánh Thể. Người viết:

“Và này một phép lạ xuất hiện
Một sự biến đổi:
Này Ngài trở nên con,
Con là Thánh Thể Ngài.”

Trong Thánh Thể, không có gì trong đời ta mà không thuộc về Chúa Kitô, như Chân Phước Êlisabét Chúa Ba Ngôi viết trong một lá thư gửi cho mẹ ngài: “Tân nương thuộc về Tân Lang; Tân Lang của con đã cưới con; Người muốn con thêm cho Người một nhân tính. Chúa Giêsu cũng đang nói với chúng ta: Ta đói khát con, Ta muốn sống trong con, vì thế, Ta cần sống trong các tư tưởng của con, trong mọi tình cảm của con; Ta cần sống qua thân xác con, qua cơ thể con, qua ước vọng mỗi ngày con; Ta cần con nuôi dưỡng theo cách thức mà con được Ta nuôi dưỡng!”

3- Hồng ân cao cả gắn liền với trách nhiệm

Trước Thánh Thể, chúng ta phải thốt lên rằng: Ôi thật là kỳ diệu và thật là an ủi biết bao khi nghĩ rằng con người của chúng ta trở thành con người của Chúa Kitô! Nhưng ân huệ này cũng đòi hỏi trách nhiệm và sự cố gắng của mỗi người: Nếu cặp mắt tôi trở thành cặp mắt Chúa Kitô và miệng tôi trở thành miệng Chúa Kitô, thì không có lý do nào có thể cho phép đôi mắt tôi thỏa thuê với những hình ảnh dâm dật trên phương tiện truyền thông truyền hình; không có lý do nào cho phép miệng lưỡi tôi nói lời những lời gian dối, lừa lọc, chống lại anh chị em mình, hay tôi dùng thân xác tôi phục vụ như một phương tiện của tội lỗi. Như Thánh Phaolô chất vấn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao?” (1 Cr 6,15).

Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi lên rước Chúa vào lòng. Nhưng khi lên rước Chúa, chúng ta phải ở trong tình trạng ân sủng, nghĩa là sạch tội trọng. Thánh Phaolô viết: “Vì thế, ai ăn bánh hay uống chén của Chúa cách bất xứng, thì xúc phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn bánh và uống chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình” (1 Cr 11,27-29).

Như vậy, bí tích Thánh Thể là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Nơi Thánh Thể, nguồn mạch Lòng Thương Xót Chúa trào dâng cho loài người. Chúng ta được mời gọi năng đến tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc nguồn ơn Thương Xót và để đáp lại tình Chúa đã dành cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, con tin thật Chúa ngự thật trong bí tích Thánh Thể. Con kính mến Chúa trên hết mọi sự, và khao khát được rước Chúa vào linh hồn con. Con muốn kết hợp với Chúa và xin Chúa đừng bao giờ để con lìa xa Chúa. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA GIÊSU
DANH NGÀI LÀ THƯƠNG XÓT
St 14,18-20; 1 Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17

Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu đó đã trở thành thương xót khi Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ loài người. Xuyên qua lịch sử, Thiên Chúa mạc khải Người là vị Thiên Chúa thương xót qua danh thánh Giavê, qua danh thánh Giêsu và qua Giáo Hội.

1- “Giavê,” vị Thiên Chúa thương xót

Cựu Ước đã nhiều lần ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ với vị Thiên Chúa thương xót, đặc biệt là kinh nghiệm của Môsê gặp gỡ vị Thiên Chúa tại núi Sinai. Sách Xuất Hành kể lại cuộc đàm đạo giữa Môsê với Thiên Chúa mà ông chưa biết tên. Ông hỏi tên Người là gì và Thiên Chúa mạc khải cho ông biết tên Người là Giavê, Đấng Tự Hiện Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápbraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp” (x. Xh 3,1-15).

Trong tiếng Do Thái, “Giavê” diễn tả vị Thiên Chúa sống động và hiện diện bên cạnh con người để giải phóng họ; đó là Thiên Chúa gần gũi và sẵn sàng đáp cứu con người gặp cảnh khó khăn. Khi Thiên Chúa mạc khải tên chính là lúc mạc khải bản tính Người. Đó là vị “Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6).

Lịch sử cứu độ là lịch sử của lòng thương xót mà Thiên Chúa thể hiện đối với con người, hơn là lịch sử của một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, thích phạt và hủy diệt loài người.

Vì Thiên Chúa thương xót nên Người luôn sẵn sàng tha thứ mọi sự xúc phạm và tội lỗi của loài người. Thánh Vịnh gia nói: “Người tha thứ cho tất cả tội lỗi của bạn, Người chữa lành mọi bệnh tật của bạn, Người cứu chuộc bạn khỏi hố sâu, Người trao vương niệm cho bạn với tình yêu kiên định và lòng thương xót” (Tv 103,3-4).

Như thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình là Đấng giàu thương xót. Đó chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta.

2- “Giêsu,” hiện thân lòng thương xót

Với mầu nhiệm nhập thể làm người, lòng thương xót của Thiên Chúa có một dung mạo cụ thể và rõ ràng qua dung mạo của Đức Kitô.
Bởi thế, bắt đầu Tông Chiếu Misericordiae Vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có những lời rất ý nghĩa: “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Mầu nhiệm Kitô giáo được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nadarét, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4)… đã sai Người Con duy nhất đến thế gian… để mạc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Người. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (Ga 14,9). Đức Giêsu Nadarét đã mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bản thân Người (Misericordiae Vultus, số 1).

Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu xuất hiện như là sứ giả của lòng thương xót Chúa Cha: khi thấy đám đông dân chúng bơ vơ không người chăn dắt, Người chạnh lòng thương họ cách sâu xa (x. Mt 9,36); khi thấy những người đau yếu bệnh hoạn tật nguyền, bị quỷ ám, Người chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19); khi thấy những người tội lỗi cần hoán cải, Người chủ động đến gặp gỡ và giúp họ trở về như trường hợp của Mátthêu của Giakêu hay của Mađalêna v.v...

Tuy nhiên, nghĩa cử thương xót ấy đạt tới viên mãn nơi biến cố Chết và Phục Sinh của Đức Kitô. Tại đây, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình cho đến cùng, trở thành người Tôi Tớ đau khổ, chịu chết trên thập giá, đổ máu đào để cứu độ loài người. Nơi thập giá, Người Mạc khải lòng thương xót Thiên Chúa một cách tuyệt vời nhất: Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Thiên Chúa chịu chết thay cho chúng ta để chúng ta được sống dồi dào. Và sự phục sinh của Đức Kitô là chiến thắng của lòng thương xót Chúa trên tội lỗi và oán thù.

Như thế, Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Người đến không để hủy diệt nhưng để cứu chữa, và tìm lại những gì đã mất.

3- Điều kiện để đón nhận lòng thương xót

Điều kiện 1: nhận biết mình có tội và cần đến lòng thương xót: để đón nhận ơn tha thứ và thương xót, chúng ta phải thực sự có lòng sám hối. Nhìn nhận mình có tội và xin Chúa tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên: “Phải mở lòng với lòng thương xót, mở tâm hồn và bản thân ra, để Chúa Giêsu đến với mình bằng cách đi xưng tội trong Đức tin.”

Tất cả chúng ta đều là tội nhân cần đến lòng thương xót Chúa, chúng hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chỉ cần chúng ta hoán cải, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.

Điều kiện 2: Hoán cải và thay đổi đời sống: Thiên Chúa hay thương xót nhưng không vì thế mà chúng ta muốn làm gì thì làm, sống thế nào thì sống. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải sám hối và hoán cải đời sống mình.
Nếu thiếu hoán cải đời sống, chúng ta biến ân sủng quý giá của Thiên Chúa thành một thứ ân sủng “rẻ tiền.” Như Đức Hồng Y Kasper cảnh báo: “Sự nguy hiểm của những việc như thế là biến ơn thánh quí báu của Thiên Chúa, vốn phải mua bằng giá máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, biến ơn thánh thành món hàng bán rẻ ở tầng hầm.”

4- Nơi để đón nhận lòng thương xót

Nơi 1: Bí tích Hòa Giải là tòa của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến đó và xưng tội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đi xưng tội một cách công khai dù ngài là giáo hoàng. Ngài làm gương cho chúng ta.

Nơi 2: Thánh Thể, nguồn mạch của lòng thương xót Chúa. Tại đây, Đức Giêsu trở thành lương thực cho chúng ta. Chúa ban sự sống thần linh cho chúng ta. Hãy đến tham dự Thánh Lễ hằng ngày và hằng tuần. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp lòng thương xót Chúa.

5- Kitô hữu, tên của lòng thương xót

Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng thương xót như Chúa Cha” (Lc 6,36). Nếu tên của Chúa là thương xót thì tên của chúng ta cũng phải phản ánh lòng thương xót Chúa. Chúng ta được mời gọi hãy sống và thực thi lòng thương xót Chúa trong môi trường sống của mình. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta thực thi lòng thương xót đối với tha nhân bằng thái độ tôn trọng, cảm thương, bao dung và chia sẻ đối với những người xung quanh. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/

- June 16, 2022