Mùa Chay Năm C

Tình cha hậu hỉ


Sự Tinh Ranh Của Thần Dữ

Chúa Nhật I Mùa Chay C-2019

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa


“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6,13). Lời cầu xin cuối trong kinh Lạy Cha mà Chúa Kitô dạy khẳng định hai sự thật mà chúng ta phải không ngừng cảnh giác đó là thần dữ và chước cám dỗ. Cám dỗ loài người có thể nói là việc chính yếu của thần dữ. Đã là Satan thì chước mưu cám dỗ không thể không tinh ranh, ma mãnh. Khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng tin mừng, Chúa Kitô đã phải đương đầu với các chước cám dỗ của Satan trong hoang địa mà cả ba tin mừng nhất lãm đều tường thuật dù có một vài tiểu dị nhưng đều đồng quy về nội dung.

Lấy điều xấu để cám dỗ thì rất dễ bị nhận diện. Vì thế ma quỷ thường lấy điều tốt để làm cái mồi nhữ để cám dỗ người ta. Nó cám dỗ người ta tìm cách thủ đắc điều tốt bằng những phương thế không chính đáng và trái với đường lối của Thiên Chúa. Một quy tắc luân lý mà Hội Thánh Công Giáo khẳng định và những ai có lương tri ngay thẳng thì đều đồng thuận đó là “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Không thể chấp nhận lối biện luận là hễ nhắm mục đích tốt thì có thể dùng mọi phương tiện, nhưng chỉ được phép dùng những phương tiện tốt, hoặc ít ra là không xấu. Xưa kia Satan đã lấy việc phân biệt sự lành sự dữ, vốn là một điều tốt để cám dỗ nguyên tổ loài người. Nhưng nó đã cám dỗ nguyên tổ phân định lành dữ, tốt xấu theo tiêu chí của mình chứ không phải theo thánh ý của Thiên Chúa. Đây là sự ma mãnh, tinh quái của thần dữ và nó đã thắng Ađam-Eva.

Với Chúa Kitô thì Satan vẫn dùng chước mưu ấy. Có thể khẳng định rằng nó thừa biết sứ vụ cứu độ của Đấng Thiên Sai. Ma quỷ không dại gì cám dỗ Người khước từ sứ vụ cứu độ nhân loại, nhưng nó chỉ cám dỗ Người chọn con đường cứu độ cách dễ dàng theo ý riêng Người chứ không theo thánh ý Chúa Cha. Xưa kia ma quỷ cám dỗ tiên tố loài người chủ yếu ở lãnh vực đức tin tức là nơi cái nhìn, ở sự nhận thức về tính chất tốt xấu, lành dữ của sự vật hiện tượng. Với Chúa Kitô thì ma quỷ tấn công cách toàn diện cả ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy và đức mến. Theo tường thuật chung của ba Tin mừng nhất lãm thì thứ tự như bị đảo ngược lại.

1.Đức mến: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá thành bánh đi”. Có thực mới vực được đạo chứ. Chu cấp lương thực, của cải vật chất cho người ta là một hành vi yêu thương cách thiết thực và cụ thể. Với quyền năng của mình, Chúa Kitô thừa sức thực hiện điều ấy. Sự tinh ranh của ma quỷ ở chỗ nó cám dỗ Chúa Kitô yêu thương con người cách phiếm diện, nói nôm na là chỉ lo cho người ta về phần xác. Con người không phải là linh hồn cũng không phải là thân xác mà là thực thể xác hồn duy nhất. Nếu chỉ yêu phần xác hay chỉ phần linh hồn mà thôi thì không phải yêu thương con người. “Người ta sống không nguyên nhờ bởi cơm bánh mà còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Chúa Kitô đã lật tẩy mưu mô của thần dữ khiến nó phải câm miệng.

2.Đức cậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy lên nóc Đền thờ Giêrusalem mà gieo mình xuống, chắc chắn Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đỡ chân ông”(x.Lc 4,9-10). Nếu Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và nếu Người là Cha nhân hậu thì Người phải lo lắng cho chúng ta mọi sự tất tần tật và không thể nào để chúng ta phải lâm cảnh bỉ cực, khốn khổ. Và như thế hạnh phúc vĩnh cửu đã nằm trong túi áo chúng ta cho dù chúng ta không xin và cũng chẳng tìm kiếm. Theo viễn kiến này thì con người đã nắm được Thiên Chúa trong tầm tay. Ỷ lại vào tình cha mà bắt cha làm theo ý mình thì người con đã hữu ý hay vô tình đặt mình lên trên người cha. Trật tự bị đảo ngược thì sinh ra hỗn độn. Loài người chúng ta dù đã được nhận làm con Thiên Chúa nhưng vẫn là loài thụ tạo. Chúng ta phải thực thi thánh ý Thiên Chúa chứ không thể buộc Thiên Chúa làm theo ý mình.

3.Đức tin: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Ma quỷ đã khôn khéo cám dỗ Chúa Giêsu thoả hiệp với nó để đạt thành công nhanh chóng. Quả thật sức mạnh của đồng tiền, của quyền lực vốn thật khó cưỡng. “Có tiền thì mua tiên cũng được. Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Những câu nói trên phần nào phản ảnh hiện thực ấy. Thoả hiệp với quyền lực trần gian để đạt mục tiêu tốt, chẳng hạn như để được dễ dàng sinh hoạt tôn giáo…là một trong những chước cám dỗ mà Giáo Hội chúng ta mọi thời phải đương đầu và lich sử minh chứng rằng đã không lần chúng ta sa chước cám dỗ để rồi phải ăn năn, xin lỗi.

Trong hoang mạc, Chúa Giêsu đã đánh bại ma quỷ nhưng nó vẫn chưa chịu bó tay. Tin mừng tường thuật rằng nó rút lui và chờ dịp khác. Ma quỷ tiếp tục tấn công Chúa Giêsu không chỉ suốt ba năm Người rao giảng tin mừng, mà cả đến những giờ khắc trong vườn cây dầu và phút giây Người hấp hối trên thập giá. Dĩ nhiên với Chúa Giêsu thì ma quỷ đã thất bại hoàn toàn nhưng còn với môn đệ của Người thì sao đây?

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Ước gì lời cầu xin này luôn nhắc nhớ chúng ta cẩn trọng với sự tinh ranh, ma mãnh của Satan để rồi biết tỉnh thức cầu nguyện luôn như lời Chúa Giêsu nói với ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 

Mong Điềm Lạ

(x.Gn 3,1-10; Lc 11,29-32)


Thế giới càng văn minh, nhân loại càng tiến bộ với khoa học công nghệ hiện đại thì dường như nỗi lo, sự e ngại càng không giảm đi mà có phần tăng lên thêm và mang nhiều sắc thái khác nhau. Khi càng đầy đủ tiện nghi thì càng chất thêm nhiều nỗi lo sợ. Người ta lo sợ vì có thể mất đi những gì đang có. Do đó các hãng bảo hiểm luôn ăn nên làm ra. Hơn nữa, chính khi cuộc sống vật chất xem chừng được bảo đảm thì đời sống tinh thần lại bấp bênh, vì sự phát triển của đời sống tinh thần dường như không theo kịp với tốc độ phát triển quá nhanh, kiểu chóng mặt của đời sống kinh tế ngày càng hiện đại như hôm nay. Sống trong tình trạng bấp bênh thì người ta luôn khao khát “sự đột biến”. Không lạ gì những khi mất chủ quyền, bị nô lệ thì dân Israel lại khát khao Đấng Thiên sai xuất hiện cách mãnh liệt. Càng không ổn định thì ta càng thích những chuyện “giật gân”, “chuyện lạ”. Các phương tiện truyền thông, các báo, đài không ngại ngần khai thác tâm lý này để thu lợi. Chuyện tình đổ vỡ giữa công nương Diana và hoàng tử Charles vương quốc Anh đã từng một thời trở thành món hàng kinh doanh của nhiều toà soạn, ký giả, phóng viên. Sự phong lưu đa tình của một nguyên thủ nước cờ hoa cũng đã là chuyện lạ đó đây. Có được mấy ai không thích chuyện lạ? Chuyện lạ nào lại không gợi tính tò mò, gây sự chú ý? Dân Việt cũng đã hăm hở lên màn ảnh nhỏ với tiết mục“những chuyện lạ Việt Nam”. Thú thực, bản thân tôi cũng đã từng không kìm được sự hiếu kỳ, một sự hiếu kỳ rất chi là “dân tộc tính”.

Ngài hãy làm một điềm lạ từ trời xem nào! Hỡi dòng giống ác độc, sẽ chẳng cho các ngươi điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Đức Giêsu vô tình hay hữu ý kéo chuyện bà hoàng phương Nam vào đây. Đến ngày tận thế Nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên tố cáo dòng giống này vì bà đã từ tận cùng trái đất đến để nghe lời khôn ngoan của vua Salômon. Và dân Ninivê cũng sẽ tố cáo dân này vì họ đã nghe lời tiên tri Giona. Ở đây còn có người hơn cả Giona, Salômon nữa (x.Lc 11,29-32).

ĐIỀM LẠ GIONA :

Hẳn nhiên thoạt nghe điềm lạ của tiên tri Giona, ta dễ liên tưởng đến chuyện Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt Matthêu sau này khi viết cũng liên tưởng điều này, vì nhớ đến việc Đức Giêsu ở trong mộ ba ngày qua cuộc khổ nạn. Dù rằng chuyện tiên tri Giona chỉ là một chuyện thuộc loại hình văn chương dụ ngôn, thế nhưng chuyện một người ở trong bụng cá ba đêm ngày mà vẫn còn sống thì quả là rất lạ. Cái sự lạ này nếu có thì chỉ với số người ở ngay bờ biển. Ninivê, một thành phố lớn, thủ phủ của đế quốc Assyri, phía Đông Bắc nước Israel, bên con sông Tigre, con sông đổ về vịnh Batư, chắc hẳn theo luận lý bình thường thì dân thành Ninivê sẽ khó lòng biết chuyện Giona ở trong bụng cá. Thế thì Tiên tri Giona đã trở nên điềm lạ cho dân thành Ninivê ở điểm nào?

Ta sẽ nhận ra cái nét lạ, khi chịu khó tìm hiểu lịch sử một chút. Đế quốc Assyri thời bấy giờ là một đế quốc lớn đang thôn tính hay đô hộ nhiều nước nhỏ khác trong đó có nước Israel (khi ấy nước Do Thái đang bị phân chia thành hai, đó là Israel ở phia Bắc và Giuđêa ở phía Nam). Hôm nay, bỗng có một anh là con dân nước bị trị, ngang nhiên đến thủ đô của đế quốc tuyên bố những điều chướng tai, khó nghe. “Còn bốn mươi ngày nữa Ninivê sẽ bị phá đổ”(Gn 3,4). Quả là to gan, đáng chém đầu. Giả như tôi là một trong những con dân thành Ninivê, tôi sẽ cùng với một vài người xách cổ Giona ra, cho vài bạt tai, đá vài cái vào “mông” rồi đuổi về nước. Chắc hẳn Tiên tri Giona thừa hiểu điều này. Thay vì đi về hướng Ninivê, Giona đã muốn qua mặt Giavê mà về hướng Tacxê. Sự việc ông làm trái lời Giavê phán dạy không chỉ vì không muốn cho dân Ninivê, một thứ “dân ngoại” được khỏi tai hoạ mà cũng có phần lo sợ cho số phận mình. Sao lại không lo lắng khi to gan liều mình đi nói một điều xúi quẩy, cho dù đó là sự thật, mà lại nói với những người trên đầu trên cổ của mình xét về mặt xã hội. Kinh thánh không nói rõ nhưng ta có thể suy đoán những lời lẽ của Giona. Ngoài câu còn bốn mươi ngày nữa Ninivê sẽ bị phá đổ thì phải có những lý chứng kèm theo đó là vì vua quan lẫn dân chúng thành ấy đang sa đoạ trong tội lỗi. Thánh kinh Cựu ước cho ta hay rằng hễ Giavê đoán phạt ai là vì tội lỗi của họ hoặc có thể là vì tội lỗi của các đấng bậc ở bên trên như hàng vua chúa quan quyền chẳng hạn.

“Sẽ chỉ cho dân này điềm lạ của Tiên tri Giona… và ở đây còn có Đấng hơn cả Giona”. Cái điều hơn cả Giona ở đây, mới nghe ta dễ liên tưởng đến phẩm vị. Chúa Giêsu thì hơn Giona chứ. Ngài là Con Thiên Chúa. Đúng vậy, nhưng chỉ đúng với người có niềm tin sau này. Với các Tông đồ thì cũng chỉ đúng cách chắc chắn sau biến cố Chúa phục sinh. Còn với các khán thính giả của Chúa Giêsu lúc bấy giờ thì sao? Đây có một người hơn cả Giona về sự to gan, về sự liều lĩnh. Đây là Giêsu thành Nazaret. Nazaret nào có gì hay chứ? Nathanaen đã không một lần thẳng thừng với Philipphê đấy ư? Ông ta chỉ là người thợ mộc bình thường nếu không muốn nói là tầm thường. Thế mà ông ta to gan vạch trần sự giả dối của các vị đạo đức, tự tách riêng khỏi đám đông tội lỗi (biệt phái). Họ như những thứ mồ mả tô vôi mà bên trong đầy sự tanh hôi (x.Lc 11,44)…. Các ngài tiến sĩ luật, ông cũng không chừa. Ông tố cáo họ dùng sự thông thái của mình để vẽ vời nhiều sự. Họ tạo nên nhiều tập tục, nghi tiết chất nặng trên vai trên cổ đám dân đen còn họ thì không buồn giơ một ngón tay lay thử (x.Lc11,46)… Các Thượng tế, những đấng bậc thay dân để tế lễ Giavê vẫn bị tấn công. Ông mạnh mẽ lên án họ đã biến Đền thờ thành sào huyệt của phường trộm cướp (x.Mc 11,17). Cả đến vua Hêrôđê, ông cũng đã đặt tên là con cáo già (x Lc 13,32).

Vẫn là ông, Giêsu Nazaret, một người to gan hơn cả Giona. Sự thật thường dễ mất lòng. Nói những sự thật không hay, không tốt của các đấng vị vọng, của những người có quyền có chức không chỉ dễ mất lòng mà ngay cả đầu cũng khó lòng giữ nguyên với cổ. To gan, phạm thượng, cái tội đáng tru di cửu tộc. Bài học lịch sử các nước thời quân chủ chuyên chế không hiếm những mẫu gương phạm thượng, to gan sẵn sàng can ngăn vua chúa khi các vị ấy hành động sai lầm hoặc vạch mặt chỉ tên những nịnh thần hại dân hại nước.

Thấy điềm lạ là sở thích của con người vì ai ai cũng mong có sự đổi thay khi mà tình thế hôm nay không mấy đẹp, không được ổn. Dễ thôi, sở thích ấy có thể được thoả mãn bằng các hình ảnh sống động, nhưng là trên màn ảnh nhỏ hay trong các băng hình. Xưa thì có một Bao công liêm chính, nay sẽ có nhiều nhân vật quan toà, hay viện kiểm soát “hư cấu”. Dẫu sao cũng là một cách làm thoả mãn đôi mắt dân chúng và dĩ nhiên lòng của họ sẽ thấy an ủi phần nào. Bánh vẽ tuy không thể làm no lòng được nhưng lắm khi tạo cảm giác “nê nê”. Xin chớ ngủ mê! Điềm lạ vẫn rất cần cho hôm nay. Thế giới này, xã hội này và cả Hội thánh ta hôm nay vẫn rất cần có điềm lạ. Chắc chắn như xưa Chúa Giêsu sẽ chẳng cho điềm lạ nào ngoài điềm lạ của Giona, một “tiện dân” to gan vì chân lý. Chân lý sẽ giải thoát chúng ta (x.Ga 8,32).

ĐIỀM LẠ HƠN CẢ GIONA:

Cái điềm lạ hơn cả Giona trong chuyện tích Giona đó là Vua quan và toàn dân thành Ninivê. Trước những lời lẽ chướng tai của một kẻ vô danh, đúng hơn là của một người dân một nước nhược tiểu, bị trị, thế mà từ vua đến quan đến dân chúng của thủ đô một đế quốc đã khiêm tốn đón nhận. Không chỉ đón nhận kiểu hoà hoãn cho qua chuyện mà tất cả đã biến sứ điệp ấy thành hành động cụ thể. “Dân Ninivê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác vải thô và ngồi trên tro. Vua cho rao sắc chỉ:….Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình…”(Gn 3,5-10). Đọc đi đọc lại những dòng này, quả thật ta phải nghiêng mình trước sự khiêm tốn của vua lẫn dân thành Ninivê. Một điềm lạ hơn cả Tiên tri Giona.

Dễ thường người ta hay chú ý xem ai nói, ai làm hơn là nói điều gì, làm việc gì. Miệng của quan có gang có thép. Lời lẽ từ người có quyền có chức ta thường xem là đúng và hữu lý. Thậm chí một lời đơn sơ, lắm khi không cần nói trẻ thơ đã hiểu, thế mà nếu nó được một nguyên thủ quốc gia hay một bậc vị vọng thốt lên thì sẽ trở thành khuôn vàng thước ngọc. Một số biểu bảng, panô đó đây cho ta sự thật này. Chưa kể đến những cái lưng luôn khúm núm cong cong thì bất cứ lời nào của bề trên, của bậc có quyền đều là “bệ hạ sáng suốt, bệ hạ sáng suốt”. Đón nhận sự thật, điều khôn ngoan, đặc biệt khi chúng có dính dáng cách nào đó liên quan đến những sự không hay của ta, bất kể nó khởi đi từ đâu, là một thái độ khiêm nhu chân thành. Dễ mấy ai sẵn sàng đón nhận chúng, nhất là khi chúng do những người cấp dưới, những người thấp cổ, bé phận. Thỉnh thoảng có một đôi dòng tâm tình với chủ chăn ở báo này báo kia thì đã không thiếu quý ngài la toáng lên. Cũng may, ở xứ ta, tâm tình tôn kính bề trên dẫu sao vẫn còn đó. Bản thân tôi chưa nghe và chưa thấy những lời lẽ kiểu ngang ngược, kiểu “bình đẳng” như bên Tây, Mỹ. Chưa nghe nhưng thiết nghĩ ta cần phải sẵn sàng đón nhận.

Hai cô ca sĩ có khen nhau bao giờ. Câu nói này khiến ta hổ thẹn với Nữ Hoàng phương Nam. Cũng phận đứng đầu một quốc gia, thế mà Nữ hoàng đã khiêm tốn đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômon. Một giáo dân có đôi suy tư ý vị lẫn sâu sắc thì thế nào cũng sẽ dễ bị coi thường vì chỉ là hàng giáo dân. Một tu sĩ giảng dạy thu hút nhưng vẫn có thể ít được các nhà dòng mời dạy, mời giảng tỉnh tâm chỉ vì không có thánh chức. Đã là tỉnh tâm năm của hàng linh mục thì phải mời cho được giám mục giảng dù vị ấy không chuyên môn trong việc giảng tỉnh tâm. Muốn nói cho giáo dân nghe, ít nữa phải là tu sĩ. Muốn nói cho tu sĩ nghe, ít nữa phải là linh mục. Muốn nói cho linh mục nghe thì phải là giám mục. Quả đúng là những chuyện bình thường của kiếp người. Vì thế chuyện Nữ hoàng phương Nam đúng là chuyện lạ.

Hội Thánh chúng ta, Nước Việt chúng ta rất cần có điềm lạ như Giona, như Nữ hoàng phương Nam, như Vua quan và dân thành Ninivê. Đã và đang xuất hiện nhiều Giona cho nước nhà chúng ta, những Giona chấp nhận cả việc bị khai trừ ra khỏi đảng cầm quyền, những Giona chấp nhận bị trù dập, mất quyền lợi để nói lên sự thật, có những sự thật rất dễ mất lòng như là bỏ sự độc quyền, bỏ cái tư duy “mục đích biện minh cho phương tiện” kiểu cách lý luận tương tự như ông Đặng Tiểu Bình: “mèo trắng hay mèo đen thì bất kể, miễn là bắt được chuột” hoặc đề nghị bỏ cả tư duy cũ không phù hợp với đà phát triển của lịch sử. Đã và đang xuất hiện đó đây trong Hội thánh những Giona dám to gan góp ý với các Đấng bậc “làm thầy” dù rằng có thể bị hiểu lầm là “rối đạo”, là “thiếu vâng phục”… Điềm lạ Giona đã xảy ra còn điềm lạ vua quan Ninivê thì sao? Xin các đấng, các vị có quyền, có chức, đang nắm vận mệnh đất nước, đang điều khiển con thuyền Hội thánh hãy can đảm khiêm nhu để trở nên điềm lạ như vua quan Ninivê và Nữ hoàng phương Nam: Lắng nghe và đón nhận sự thật bất kể chúng khởi đi từ đâu. Lắng nghe và đón nhận mới chỉ là bước khởi đầu. Điềm lạ thực sự là ở động thái biết hoán cải, biết đổi thay.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 

Xin Thì Sẽ Được

(Thứ Năm sau CN I Mùa Chay – Et 14,1.3-5.12-14; Mt 7,7-12)


‘Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7).

Kitô hữu chúng ta tin vào lời khẳng định của Chúa Giêsu về hiệu quả của lời cầu xin. Tuy nhiên thực tế vẫn có đó khoảng cách giữa lòng tin và sự xác tín. Biết bao lời cầu dâng lên Thiên Chúa thế mà hiệu quả ơn ban như chưa thấy. Phần Phụng vụ Lời Chúa giáo hội cho trích đọc trong ngày thứ Năm sau Chúa Nhật I Mùa Chay (Sách Ester và Tin Mừng Matthêu) cho chúng ta thấy một vài yếu tố như là điều kiện ắt có để lời cầu của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.

1.Điều chúng ta xin phải là điều tốt và liên hệ đến điều tốt nhất là sự sống, sự sống đời đời. “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11). Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng nên Người không thể ban những sự xấu vì đó là điều nghịch với bản tính của Người. Và khi điều chúng ta xin xem ra là tốt nhưng lại ảnh hưởng đến sự tốt nhất của chúng ta là sự sống đời đời thì Thiên Chúa sẽ chẳng ban cho.

2.Điều chúng ta cầu xin phải là điều tốt, tốt nhất cho chúng ta và trong sự liên đới với hạnh phúc vĩnh cửu của tha nhân. “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế” (Mt 7,12). Không ai có thể lên trời một mình. Hạnh phúc vĩnh cửu là không dành riêng cho một ai. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Cha của hết mọi người. Lời kinh duy nhất Chúa Giêsu truyền dạy: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (x.Mt 6,9-12). Lời cầu xin của hoàng hậu Ester không chỉ nhằm cứu vớt sinh mạng của bà mà còn liên hệ đến sự sống của toàn dân tộc Do Thái trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

3.Phải nỗ lực thực hiện tất cả những gì có thể trong khả năng và hoàn cảnh của mình liên quan đến nội hàm của lời cầu xin. Để Thiên Chúa đoái thương nhậm lời cầu xin thì tiên vàn chúng ta phải góp phần của mình hết sức có thể, dù cho phải trả giá đắt. Hoàng hậu Ester đã thể hiện điều này bằng việc chấp nhận bị đức vua trừng phạt khi cố tình tìm cách diện kiến đức vua mà chưa có lệnh vua triệu hầu, vì đó là trái với luật hoàng gia. “Aide toi, le ciel t’aidera”. Để trời xanh thương giúp thì bản thân chúng ta phải nỗ lực gắng công trước đã.

4.Khiêm nhu nhìn nhận rằng lời cầu xin của chúng ta nếu có được nhậm lời thì tất cả là do quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Hoàng hậu Ester biểu lộ động thái khiêm nhu này qua việc chay tịnh hai ngày trước khi đi diện kiến đức vua để cứu sống mình và dân tộc mình. Và lời cầu nguyện tha thiết của hoàng hậu dâng lên Thiên Chúa cũng nói lên chân lý này: “Lạy Chúa con, chỉ mình Chúa là Vua chúng con, ngoài Chúa không có ai khác giúp đỡ con. Con đang lâm cơn nguy biến…”. “Tout est grâce”. Tất cả đều là hồng ân, nhất là hạnh phúc vĩnh cửu.

Xin thì sẽ được, nhưng hãy xem xét lại nội dung lời cầu của chúng ta cũng như cách thế chúng ta cầu xin như thế nào.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 

Sự Chính Trực Của Đường Lối Thiên Chúa

(Thứ Sáu sau CN I Mùa Chay – Ed 18,21-28; Mt 5,20-26)


Đã từng có đó nhiều trường hợp quan chức vi phạm pháp luật đứng trước vành móng ngựa khẩn xin Tòa án xem xét công trạng trước đây (có công với cách mạng), để xin khoan hồng hay giảm nhẹ án. “Pháp bất vị thân”. Lối hành xử của công đường thời xa xưa xem ra khá rõ ràng. Hoàng thân quốc thích hay tiện dân khi có tội đều xử như nhau. “Pháp bất vị công”. Nếu công minh thì các vị trên công đường cũng phài hành xử rõ ràng công ra công, tội ra tội. Dư luận xem ra bất bình khi Tòa án trong nhiều trường hợp đã xem xét công trạng phạm nhân để giảm nhẹ hình phạt kiểu dân xử nhặt, quan xử tình!

“Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy”(Is 55,8-9). Lời Chúa ngày thứ Sáu sau Chúa Nhật I Mùa Chay cho chúng ta thấy sự chính trực của đường lối Thiên Chúa khi xét xử đó là căn cứ vào thái độ sống của chúng ta trong thời điểm hiện tại và trong sự liên đới với tha nhân như thế nào.

Thiên Chúa đã khẳng định qua lời ngôn sứ Êdêkien rằng: “Hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại, đường lối của các người không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống” (Ed 18,25-28). Sự công minh của đường lối Thiên Chúa khiến chúng ta không được phép cậy dựa và ỉ lại vào “công trạng” của quá khứ. Và sự chính trực của đường lối Thiên Chúa chính là cơ sở của niềm hy vọng cho bất cứ ai dù trong hoàn cảnh nào đều có thể lại bắt đầu đổi thay bằng sự hoán cải và canh tân. Thiên Chúa nhìn chúng ta luôn trong giây phút hiện tại. Tác giả Thánh Vịnh xác tín: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư?” (Tv 129,3).

Bài Tin Mừng thánh sử Matthêu tường thuật một nét công minh chính trực trong đường lối của Thiên Chúa là xem xét thái độ liên đới của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta theo cách sống của chúng ta với nhau. Theo luật xưa thì không một ai được phép loại bỏ tha nhân ra khỏi cuộc sống này bằng sự giết người. Nhưng Chúa Giêsu lại còn dạy chúng ta không được phép loại bỏ tha nhân ra khỏi lòng trí của mình bằng “sự phẫn nộ”, “rủa xả”, “khinh thường”. Không chỉ thế, Người đòi hỏi chúng ta phải biết sống liên đới với tha nhân và xem đó như là một điều kiện để khỏi bị xét xử nghiêm nhặt.

“Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Nếu sự bất bình xảy ra là do lỗi của chúng ta thì việc đi làm hòa trước khi dâng của lễ thì đúng là việc phải làm. Thế nhưng nếu đó là do lỗi của người anh em thì việc sống tình liên đới đòi hỏi chúng ta cũng phải đi bước trước để làm hòa, giúp người anh em khỏi phải bị xét xử. Những ai chủ trương sống theo “chủ nghĩa mặc kệ nó”, “hồn ai nấy giữ”, “đèn nhà ai nấy rạng”, thì hầu chắc không xứng đáng dâng lời kinh: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9-13).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 


- March 12, 2022