suy niệm mùa chay, năm C

by Trầm Thiên Thu

March 4, 2022

 

Đấu Trí

(Chúa Nhật I Chay, năm C-2016)

Đấu trí cũng là một dạng đấu lý, dùng các lý lẽ để đối đáp với nhau, lý luận lẫn nhau. Người lý luận cần nhanh trí, lý luận sâu sắc và rạch ròi. Tuy nhiên, phải biết người biết ta, chứ đừng dại mà lấy trứng chọi với đá, và thật khốn cho ai dám giơ chân đá lại mũi nhọn (x. Cv 26:14).

Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Thế nhưng lĩnh vực nào cũng vẫn cần lý trí. Ngay cả tâm linh cũng vẫn cần có lý trí, nếu tin mà không cân nhắc thì có thể bị mù quáng, tin lệch lạc, hóa thành mê tín dị đoan, thậm chí có thể có nguy cơ phản đức tin. Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Ngược lại, nếu có đức tin đúng đắn, người đó thật hạnh phúc, vì “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự” (Thánh Don Bosco). Đó là tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Ngài quan phòng theo sự tiền định của Ngài, và đó cũng chính là cách tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Kinh Thánh cho biết rằng sau khi tư tế nhận của lễ đầu mùa do dân Chúa tiến dâng và đem đặt trước bàn thờ Thiên Chúa, dân chúng liền thân thưa: “Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Đnl 26:6-10).

Dân chúng đã có những lúc bất tín và nổi loạn, nhưng khi họ biết mình sai lầm và thành tâm sám hối, Thiên Chúa lại sẵn sàng tha thứ. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho những điều tốt lành rất bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng luôn giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, dù chúng ta bất xứng (x. Ge 2:13; Ep 2:4).

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần cảm thấy thất vọng – thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc muốn buông xuôi. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là đừng bao giờ tuyệt vọng (x. 2 Cr 4:8). Bởi vì Kinh Thánh đã xác định: “Dù cha mẹ có bỏ con thì vẫn còn Thiên Chúa đón nhận” (Tv 26:10). Chắc chắn như vậy. Vả lại, đối với Thiên Chúa, tất cả đều là “chuyện nhỏ” (x. Mt 19:26; Lc 1:37; Mc 10:27), Ngài chỉ muốn chúng ta hợp tác với Ngài bằng cách thật lòng ăn năn: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Gương các thánh cho chúng ta thấy rằng nhiều tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ biết sám hối. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót vô cùng lớn lao và kỳ diệu!

Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2).

Sẽ chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nơi nào an toàn vĩnh viễn ngoài Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:10-13). Vấn đề quan trọng hơn đó là chính Thiên Chúa đã xác nhận: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại; lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Đặc biệt là Ngài còn ban cho chúng ta có nhiều thứ khác nữa.

Không bao giờ chúng ta có thể diễn tả hết ý về Thiên Chúa, về lòng thương xót của Ngài. Còn Kinh Thánh nói gì? Thánh Phaolô cho biết: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10:8-9).

Có đầy mới tràn, trong lòng thế nào thì thể hiện như vậy, không thể che giấu mãi. Thời gian sẽ chứng tỏ lòng ai thế nào. Tốt hay xấu sẽ như cây kim trong bọc, nó sẽ có ngày lòi ra – “lòi” ra ngay trong cách nói chuyện. Chúng ta giấu giếm với nhau mà còn khó khăn lắm, chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).

Thánh Phaolô minh định: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ. Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát (Rm 10:10-13). Niềm tin đó phải là niềm tin thật lòng, không thể giả vờ để “che mắt thiên hạ”. Niềm tín đó cũng luôn được tôi luyện qua cuộc sống thường nhật, mọi nơi và mọi lúc. Thật vậy, “đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1:3), và “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).

Đó là triết lý sống, là cuộc đấu trí giữa chúng ta với cuộc sống trên hành trình lữ thứ trần gian này. Cuộc đấu trí đó có thật chứ không mơ hồ hoặc giả tạo. Đấu trí với ai? Với ba “người quen”, mệnh danh là ba thù: Ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Có lẽ cuộc đấu trí gay go nhất là đấu trí với xác thịt, người quen nhất – tức là đấu trí với chính mình. Thật vậy, “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon).

Trình thuật Lc 4:1-13 nói về “cuộc đấu trí” giữa Chúa Giêsu và ma quỷ. Đó là chước cám dỗ, là cái bẫy mà ma quỷ “gài” để Ngài vào sập bẫy. Nhưng thụ tạo không thể đối đầu với Tạo Hóa, cái ác không thể tiêu diệt cái thiện.

Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, rồi Ngài từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, Ngài thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói đặt vấn đề với Ngài rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì biến hòn đá thành bánh. Nhãi ranh mà chảnh, đừng thấy dụ được ông bà Nguyên Tổ ăn táo thơm rồi tưởng mình “ngon” nha! Đức Giêsu nói ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.

Thua keo này nó bày keo khác. Sau đó, nó đem Đức Giêsu lên cao, rồi nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói nó sẽ cho Ngài toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho nó, và nó muốn cho ai tuỳ ý. Nó dụ Ngài bái lạy nó rồi nó cho Ngài tất cả. Đúng là “cóc muốn bằng bò” mà. Đức Giêsu thản nhiên nói: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Quỷ vẫn chưa tâm phục, khẩu phục. Nó lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi vênh vang tự đắc nói rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì đứng trên cao đó mà gieo mình xuống. Nó lý luận là có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ Ngài, Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng Ngài khỏi vấp chân vào đá. Đúng là… ma quỷ. Ranh mãnh hết sức! Thế nhưng Đức Giêsu lại nói ngay: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.

Ba – Không. Thua trắng. Hết cách xoay xở, hết bí kíp cám dỗ Chúa Giêsu. Nó đành lủi thủi bỏ đi vì không thể đấy trí với Chúa Giêsu, thế nhưng nó vẫn mưu tính để tìm thời cơ khác. Ma quỷ thật!

Cuộc sống có nhiều chước cám dỗ, tập trung vào ba điểm: Vật chất, danh vọng, cái tôi. Vật chất liên quan tiền bạc và tài sản – một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp, nhưng miếng ăn có thể là vinh hay nhục, thế mà chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì người ta tranh giành miếng ăn. Danh vọng liên quan chức tước, địa vị, quyền hành – có danh tiếng để phục vụ chứ không phải để kiêu ngạo, ảo tưởng, nhưng người ta được voi rồi đòi tiên, thích “hành” người khác mà thôi. Cái tôi liên quan tự ái, cho mình là nhất, thích được khen, ghét bị chê. Cái tôi thật đáng ghét! – Danh nhân Pascal nhận xét tinh tế lắm.

Ba thứ đó như những gọng kìm, chúng kẹp chặt chúng ta, làm cho chúng ta không thóat ra được. Từ bỏ chính mình thật là khó, nhưng phải làm đúng như vậy thì chúng ta mới khả dĩ nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5:48) và nhân từ như Chúa Cha (Lc 6:36), nhờ đó mà được cứu độ!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con để không ảo tưởng, không kiêu ngạo, không mưu mô. Xin ban cho con sự sống thật nhờ Thánh Thể, nhờ Lời Chúa, biết tránh xa bả phù vân, biết tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi, và luôn tín thác vào lòng thương xót của Ngài trong mọi hoàn cảnh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Chuyện Nén Bạc

Một bữa nọ, sau khi ông Da-kêu được Chúa Giêsu gọi xuống khỏi cây sung, ông đã mau mắn thú tội với Chúa Giêsu, rồi xin được đền tội ngay lập tức: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19:8). Chúa Giêsu vui mừng nói công khai cho mọi người biết: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:9-10). Rồi tiện dịp, Ngài kể thêm một dụ ngôn...

Đó là trình thuật Lc 19:12-27. Khi đó, Chúa Giêsu nói rằng: Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (Lc 19:13). Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: “Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi” (Lc 19:14).

Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. Người thứ nhất đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén” (Lc 19:16). Ông bảo người ấy: “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành” (Lc 19:17). Người thứ hai đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. Ông cũng khen người ấy vào cho quyền cai trị năm thành.

Rồi người thứ ba đến trình: “Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo” (Lc 19:20-21). Ông nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ!” (Lc 19:22-23). Rồi ông bảo những người đứng đó: “Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén” (Lc 19:24). Họ thưa ông: “Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!”. Nhưng ông nói ngay: “Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi” (Lc 19:26-27). Lời của ông này là lời của Đức Kitô, thật là chí lý biết bao!

Hai hình ảnh rõ nét về hai loại người: Trung tín và bất trung. Người trung tín thì cố gắng sinh lời với số vốn một nén, người bất trung thì lười biếng và ưa “ngồi mát ăn bát vàng”, ngại khó đến thân!

1. Ông Da-kêu xấu người nhưng không xấu nết. Ông biết mình tội lỗi nên MAU MẮN THÚ TỘI và MUỐN ĐƯỢC ĐỀN TỘI, dù Chúa Giêsu chưa hề “hạch tội” ông. Đó là đức khiêm nhường của ông Da-kêu, và Thiên Chúa rất thích những người sống khiêm nhường.

Hằng ngày, chúng ta cũng vẫn thú nhận tội lỗi: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Lỗi tại tôi mọi đàng!”. Thế nhưng rất có thể chúng ta chỉ đọc thuộc lòng, đọc như vẹt, chứ chưa hẳn thực sự “đấm ngực” tự thú và nhận mình là kẻ tội lỗi xấu xa. Và là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ không có phần lỗi của người khác! Nếu xét kỹ lời Kinh Thú Tội đó thì thật đáng “giật mình” lắm, vì lời lẽ xác định rất chi tiết về các dạng tội lỗi: Tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Nhiều lắm, vô số những điều thiếu sót hằng ngày. Trước đây gọi kinh này là Kinh Cáo Mình. Chữ “cáo mình” thật hay, đó là “tự mình cáo tội mình”. Nghe chữ “cáo mình” có vẻ “đau” hơn là “thú tội”.

Tác giả Thánh vịnh đã thành khẩn tự thú và cầu xin: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa. Con xin được Thánh Nhan soi xét vì mắt Ngài thấy rõ điều chính trực” (Tv 17:1-2).
Vì tín thác nên tác giả Thánh vịnh luôn tha thiết cầu nguyện: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở, cho khỏi tay lũ ác nhân hãm hại, thoát bọn tử thù tứ phía bủa vây” (Tv 17:8-9).

2. Mỗi người đều được Thiên Chúa trao cho MỘT NÉN BẠC bằng nhau, có thể hình thức khác nhau (tròn, vuông, chữ nhật, bầu dục,…) nhưng trọng lượng hoàn toàn không hơn không kém. Mỗi chúng ta đều được Thiên Chúa trao cho “một nén bạc”. Đó là thời giờ, tài năng, hoàn cảnh, sức khỏe, điều kiện tài chính (giàu hoặc nghèo), sự may mắn hoặc bất hạnh, sự thuận tiện hoặc trắc trở, sự thành công hoặc thất bại, hạnh phúc hoặc đau khổ, ánh mắt, cử chỉ, lời nói, động thái,… Vấn đề là chúng ta đã dùng “nén bạc” đó như thế nào: Sinh lời, hoang phí hoặc cất giấu kỹ?

Biết sinh lời là làm bất cứ điều gì, dù là việc riêng của cá nhân, thì cũng đều làm vì muốn SÁNG DANH CHÚA, CỨU CÁC LINH HỒN và ĐỀN TỘI MÌNH, như Thánh Phaolô nói: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), và “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14). Đức ái thì bao la và đa dạng lắm. Nhưng ai yêu thì có thể làm được mọi thứ.

Sinh lời được nhiều hay ít không là vấn đề, Chúa chỉ cần chúng ta có thực sự nỗ lực sinh lời hay không. Và dù được loại nén nào thì cũng chỉ là để PHỤC VỤ. Vấn đề là chỉ muốn Ý CHÚA NÊN TRỌN mà thôi. Thế nhưng người thứ ba lại không sinh lời vì lười biếng, ưa sống nhàn hạ, quen thói vinh thân phì da, đồng thời còn nhỏ nhen, hẹp hòi, ích kỷ, ác ý và chỉ trích, vì người này cho rằng ông chủ keo kiệt, khắc nghiệt và ác độc: “Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo” (Lc 19:20-21). Cứ “đinh ninh theo ý mình” như vậy là cố chấp, cố chấp sinh đố kỵ, đố kỵ sinh nghi ngờ, nghi ngờ sinh định kiến, cứ như thế thì làm sao có thể thay đổi tính nết mà nên thánh (hoàn thiện) theo Ý Chúa?

Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin thương xót chúng con là những tội nhân khốn nạn. Xin ban Chúa Thánh Thần để chúng con được Ngài biến đổi từ trong ra ngoài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Cách Ăn Chay

Bắt đầu Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro. Một chút tro được bỏ lên đầu (hoặc vẽ + lên trán), gọi là xức tro, thể hiện lòng ăn năn sám hối, vì ai cũng chỉ là tội nhân bất xứng trước Tôn Nhan Thiên Chúa: “Chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18; Lc 18:19). Tuy nhiên, xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn!

Chúng ta là đầy tớ mà cũng chẳng làm nên trò trống gì, chỉ vô dụng mà thôi (x. Lc 17:10). Thế nhưng chúng ta PHẢI nên thánhPHẢI thánh thiện, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lv 11:44; Lv 20:7). Động từ “phải” là mệnh lệnh, không thể không thực hiện, không làm không được. Do đó, chúng ta phải ăn chay, ăn chay để sám hối. Ăn chay như chiếc hàm thiếc tra vào mõm ngựa để kiềm chế các thói xấu, không cho nó “chứng”.

Nói đến ăn chay, ai cũng biết là nhịn ăn và nhịn uống. Nhưng đó mới là ăn chay phần xác. Vấn đề quan trọng hơn là phải ăn chay tinh thần. Ăn chay có vẻ đơn giản mà lại không hề đơn giản. Cái gì cũng cần có bí quyết, ăn chay cũng vậy, tức là phải biết cách. Chẳng hạn, ăn kiêng (một dạng ăn chay) không đúng cách sẽ “lợi bất cập hại”.

Ăn chay thế nào mới đúng cách? Ăn chay thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Chữ “trai tịnh” hay lắm. Chữ “trai” là ăn chay, chữ “tịnh” là không nói (tịnh khẩu). Nghĩa là ăn chay cả phần xác lẫn phần hồn. Để ăn chay đúng cách và làm đẹp lòng Thiên Chúa, ngôn sứ Isaia cho chúng ta biết bí quyết ăn chay qua trình thuật Is 58:1-10. Trong đó, cách ăn chay được phân ra SAI và ĐÚNG thế này:

I. CÁCH ĂN CHAY SAI

Chắc chắn Thiên Chúa không thích và loại trừ cách ăn chay sai. Nhưng Ngài ghét cách ăn chay như thế nào? Kinh Thánh cho biết mấy cách này:

1. Ăn chay mà vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình.

2. Ăn chay mà vẫn đôi co cãi vã, nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách.

Ngôn sứ Isaia thẩm vấn: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”.

Mỗi chúng ta trả lời thế nào? Đừng biện hộ hoặc viện cớ: Vì, bởi, tại,... Nhịn ăn, nhịn uống đến nỗi mệt mỏi, lả người, thế mà miệng vẫn chửi rủa, thấy ai làm gì không vừa ý mình thì giận hờn, tức tối, rồi xỉa xói, mỉa mai, ngồi lê đôi mách, thêm chút hành và thêm chút tỏi cho câu chuyện thêm gia vị,… Ăn chay không khéo sẽ “phi ăn chay”, tốt chẳng thấy mà chỉ thấy hại, phúc chẳng thấy mà lại thấy tội. Khủng khiếp quá!

II. CÁCH ĂN CHAY ĐÚNG

Chắc chắn Thiên Chúa ưa thích và chấp nhận cách ăn chay đúng. Nhưng Ngài ưa thích cách ăn chay như thế nào? Kinh Thánh cho biết mấy cách này:

1. Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm.

2. Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.

Nếu chúng ta ăn chay hợp ý Chúa, chúng ta không chỉ được xá tội mà còn được hưởng nhiều thứ khác: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!’. Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”.

Lạy Thiên Chúa, xin đến cứu con, muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ (Tv 70:1), xin giúp con ăn chay cho hợp Ý Ngài.

TRẦM THIÊN THU - Mùa Chay – 2016

Chuyện ĐAU KHỔ
Mùa Chay nói chuyện đau khổ là điều… hợp lý. Chịu đau khổ để ăn chay, để hy sinh, để đền tội, để hiệp thông với Đức Kitô Giêsu, để hiệp thông với Đức Maria, để cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện hình và những con người chịu đau khổ ở mọi nơi...
Hàng năm, Giáo hội dành tháng Chín để biệt kính Đức Mẹ Sầu Bi. Trong tháng Chín có ba lễ kính Đức Mẹ: lễ sinh nhật Đức Mẹ (8-9) lễ kính Thánh Danh Đức Mẹ (12-9), và đặc biệt là lễ Đức Mẹ Sầu Bi (15-9, trước đây gọi là lễ Đức Mẹ Bảy Sự). Đặc biệt hơn nữa, tháng Chín có lễ Suy Tôn Thánh Giá (14-9).
Người ta thường nói: “Đời là bể khổ”. Hầu như đó là câu nói cửa miệng của chúng ta. Sinh ra là sự kiện vui mừng mà ai cũng khóc, không ai cười. Đứa trẻ khóc thì thân nhân cảm thấy vui, an tâm, vì đứa trẻ không khóc là “có vấn đề”, thân nhân không vui và... quan ngại lắm!
Đối với chúng ta, những người con của Chúa, cũng không thể tránh được những đau khổ trong cuộc đời mình, có những nỗi đau khổ như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn, vì chính Đức Kitô cũng đã phải qua đau khổ mới tới vinh quang và Ngài còn mệnh danh là “Người Tôi Tớ Đau Khổ”.
Vâng, Ngài không chỉ là người tôi tớ bình thường mà là người-tôi-tớ-đau-khổ!

ĐAU KHỔ CỦA ĐỨC MẸ
Đức Mẹ là người đồng cam cộng khổ với Con Trai Giêsu suốt đời. Ông già Simêôn đã nói tiên tri: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn chị” (Lc 2:35). Quả thật, cuộc đời Đức Mẹ là bản hùng ca Liên khúc Đau khổ, vì đau khổ này chồng lên đau khổ khác, nhưng Đức Mẹ vẫn một lòng chịu đau khổ mà không nửa lời than trách, chỉ “im lặng và suy niệm trong lòng”, vì thế mà Đức Mẹ được trở thành người đồng công cứu chuộc.
Ngay khi thụ thai đã bị người ta chê trách vì “không chồng mà chửa”. Đến ngày khai hoa mãn nguyệt thì lại bị người ta hất hủi, không có chỗ trọ nên đành ra hang chiên lừa hôi tanh ngoài cánh đồng tăm tối. Sinh con chưa được bao lâu lại phải chạy trốn sang Ai Cập vì vua Hê-rô-đê lùng sục để giết Con Trẻ. Rồi Đức Mẹ lại lạc mất con, có người mẹ nào có thể bình thản khi lạc mất con như vậy?
Tưởng đã yên ổn, nhưng một thời gian sau, Đức Mẹ lại phải chứng kiến Con Trai vác Thập giá, thấy Con thương tích đầy mình và té lên té xuống, đau khổ tột đỉnh là khi Đức Mẹ đứng chết lặng nhìn Con hấp hối trên Thập giá. Tiếp theo là chờ hạ xác Con, và cuối cùng là táng xác Con.
Những “lưỡi gươm” liên tục đâm thâu lòng Ðức Mẹ, nhưng Đức Mẹ vẫn âm thầm chịu đựng. Cuộc đời Đức Mẹ được dệt bằng “những sợi đau khổ” để thành “tấm thảm đau khổ”. Quả thật, Đức Mẹ đã tử đạo nhiều lần trong đời! Chắc hẳn chúng ta không thể nào cảm nhận hết nỗi đau khổ xé lòng mà Đức Mẹ đã chịu.
Danh họa Michelangelo Buonarroti (Ý, 6/3/1475–18/2/1564) có tác phẩm điêu khắc Pietà (1498–1499, kích cỡ 174 cm × 195 cm) nổi tiếng, bằng cẩm thạch, được đặt tại Đền thờ Thánh Phêrô. Theo tiếng Ý, Pietà nghĩa là “đau xót” hoặc “thương xót”, diễn tả nỗi đau khổ của Đức Mẹ.
Kiệt tác này vừa có giá trị nghệ thuật vừa có giá trị tinh thần, vì chính kiệt tác này có thể giúp chúng ta nhớ đến nỗi đau khổ của Đức Mẹ mà cố gắng vui chịu những đau khổ triền miên trên bước lữ hành trần gian này.
Đức Mẹ không chỉ đau khổ vì thương Con mình, mà còn đau khổ vì nhân loại, vì muốn cứu độ chúng ta. Đức Mẹ đau khổ vì tình yêu sâu thẳm dành cho nhân loại, biết rõ sự cần thiết của ơn cứu độ, vì: “Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:26).

ĐAU KHỔ CỦA CHÚNG TA
Không ai thích đau khổ, nhưng dù muốn hay không thì đau khổ vẫn xuất hiện và luôn là điều bí ẩn. Xưa nay người ta không ngừng lý giải đau khổ nhưng vẫn không thể nào tìm ra đáp án. Cố học giả LM Thiên Phong Bửu Dưỡng (Dòng Đa Minh) đã viết một cuốn sách dày vài trăm trang có tựa đề là “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ”. Đó là một cách lý giải đau khổ để con người khả dĩ chấp nhận đau khổ và dùng nó làm bàn đạp để can đảm sống – theo kiểu nói ngày nay là “sống chung với lũ”.
Chúa Giêsu đã đến thế gian không để diệt trừ đau khổ mà để chia sẻ đau khổ với nhân loại, và Ngài “không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mt 20:28). Phục vụ thì phải vất vả, vất vả là một dạng đau khổ.
Cuộc sống nhiêu khê, có lúc chúng ta tưởng như hoàn toàn bế tắc. Ai cũng có nhiều trăn trở, và chắc hẳn cũng có lúc chúng ta phải thốt lên: “Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì” (Is 49:4).
Đó là điều rất ư bình thường ở đời. Chúa Giêsu đã báo trước: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em” (Ga 15:20). Nghĩa là chúng ta cũng phải gặp nhiều thứ đau khổ, đủ kiểu đau khổ, đủ cỡ đau khổ: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”.
Chúa Giêsu vẫn thường nhắc nhở: “Ai có tai thì nghe” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43). Ai lại không có tai? Có tai sao lại không nghe? Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta có tai mà vẫn không nghe! Nghe cho biết hoặc nghe cho vui tai thì cũng như không nghe, không lắng nghe thì không thể hiểu, không hiểu thì không muốn hành động, không đủ sức chịu đựng.
Chúng ta phải cố gắng có ý ngay lành đối với những đau khổ thường nhật. Chịu những đau khổ là noi gương Chúa, muốn làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Chúa, như thánh Phaolô nói: “Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng tôi” (2 Cr 5:14).
Chấp nhận đau khổ không chỉ ích lợi cho chính mình mà còn có thể cứu độ người khác, cứu độ các linh hồn. Nếu chúng ta muốn vào Nước Trời mà không kéo người khác cùng vào là chúng ta ích kỷ.
Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta. Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.
Chúng ta thường có xu hướng quy trách người khác khi chúng ta gặp đau khổ, như chúng ta thường có kiểu nói: “Vì…, tại…, bởi…, nếu…, giá mà…”. Nếu quy trách người khác thì chúng ta lỗi đức ái, thiếu khiêm nhường. Thánh Tiến sĩ Augustinô có 3 lời khuyên này:

1. Đừng tự coi mình là quan toà xét xử người khác.

2. Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và tôn trọng sự thật. Rất nhiều lần chúng ta đổ cho người khác những lỗi lầm mà người ta thực sự không có.

3. Nếu người ta có tội, nên chấp nhận rằng người ta có thể cũng có nhiều công phúc, vừa công khai vừa âm thầm.
Lịch sử đạo và đời đều có những người can đảm chịu đựng đau khổ khiến chúng ta phải khâm phục. Chính Chân phước GH Gioan Phaolô II được mệnh danh là một “Nhân chứng Đau khổ”.
Nhân chứng Đau khổ vĩ đại nhất là Đức Mẹ. Người là Hiền Mẫu của chúng ta, chắc chắn Người cũng luôn đồng hành với chúng ta. Hãy cứ “nhõng nhẽo” với Mẹ để những đau khổ của Mẹ làm cho những đau khổ của chúng ta trở nên Nỗi-Đau-Ngọt-Ngào và chúng ta đủ sức “chơi” Thú-Đau-Thương cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.

Khi sinh ra, chúng ta đã khóc và mọi người đã cười, nhưng chúng ta phải cố gắng sống sao cho lúc chúng ta giã từ cõi đời này, chúng ta an tâm mỉm cười mà người ta phải khóc vì thương tiếc.
TRẦM THIÊN THU

 

CHÚA GIÊSU NGÃ BA LẦN

Giống như Chúa Giêsu, chúng ta cũng bị kết án chịu đau khổ và phải chết vì tội. Chúa Giêsu vô tội nhưng tự nguyện; còn chúng ta, chúng ta miễn cưỡng và phạm tội.
Nếu chúng ta chịu đau khổ miễn cưỡng như các tội nhân, chúng ta sẽ chết như các tử tội. Nếu chúng ta học cách chịu đau khổ như Đức Kitô, can đảm theo Ngài, chúng ta sẽ chịu đau khổ và chết như Ngài, có công trạng và chiến thắng, cái chết cứu độ đó đem lại sự sống cho chính mình và tha nhân.
Nếu cái chết của Đức Kitô là gương mẫu và chiến thắng của chúng ta, nếu khoảnh khắc chiến thắng cuối cùng đó là chiến thắng cuối cùng của chúng ta, thì những lần Chúa Giêsu ngã xuống đất trên con đường Thập Giá, những lúc thất vọng nhất trên con đường lên Đồi Sọ, sẽ trở nên sự động viên chúng ta đối mặt với những chướng ngại vật của cuộc đời này.
Đức Kitô không phải té ngã trên đường lên Gôn-gô-tha. Ngài tự nguyện ngã để dạy chúng ta. Một số nhà thần bí tính ra Chúa Giêsu ngã tới bảy lần, mỗi lần ngã đó là vì bảy thói hư tật xấu chủ yếu của chúng ta. Truyền thống 14 chặng đàng Thánh Giá chỉ nói Chúa Giêsu ngã ba lần, và ba lần ngã đó được đề cập trong bài suy niệm ngắn này.
Hãy cân nhắc trước khi chúng ta đọc dụ ngôn Người Gieo Giống (Mt 13:4-9; Mc 4:3-9; Lc 8:5-8). Nếu chúng ta đối diện với tội lỗi có nhiều trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta sẽ dễ cảm thấy thất vọng khi đọc dụ ngôn này. Một số người trong chúng ta thấy cách thức từ những năm đầu về sự tự do chọn lựa, mặc dù chúng ta lãnh nhận ân sủng của Bí tích Thánh tẩy từ hồi nhỏ, chúng ta vẫn chọn cách đối nghịch với Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta ở trên con đường mà Lời Chúa được gieo vãi nhưng lại bị cướp mất hoặc hư hại.
Một số người thấy nhiệt huyết giảm sút, có thể vì cuộc sống thay đổi hoặc chịu đau khổ, và rồi lại sa ngã như ngựa quen đường cũ. Đó không phải là đất sỏi đá sao?
Still others see một số người khác lại thấy cách thức được dẫn vào con đường xấu vì bạn bè xấu, khiến ơn Chúa bị chết nghẹt. Những người bạn này không là gai làm Lời Chúa chết nghẹt sao?
Một số ít người có thể nhìn vào cuộc đời mình nơi Đức Kitô và nhận thấy mình là đất tốt.
Nhưng con đường Thánh Giá là con đường của chúng ta, những lần Chúa Giêsu té ngã sẽ soi sáng dụ ngôn này và giúp chúng ta hy vọng ngay trong những lúc tăm tối nhất hoặc thất vọng nhất của cuộc đời.
Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất sau khi Ngài phải vác Thập Giá. Ngài ngã xuống đất như một vật rơi tự do vì sức nặng của cây Thập Giá khoảng 100 kg, rồi những kẻ thủ ác lại hối thúc Ngài gượng dậy mà vác Thập Giá đi tiếp. Chúng ta cũng té ngã nhiều lần khi chúng ta vác thập giá của cuộc đời mình. Có thể chúng ta sa ngã hoài tội lỗi mà chúng ta đã xưng thú, hoặc không kiên trì cầu nguyện dùkhi mới quyết tâm chỉ trong một hoặc hai tuần. Có thể chúng ta “lạ lẫm” với những thập giá mới như Đức Kitô té ngã khi vừa đặt Thập Giá lên vai. Trên hành trình trỗi dậy từ cõi chết, Đức Kitô đã đứng lên sau những lần té ngã. Cũng vậy, chúng ta đdược mời gọi đứng dậy với Ngài và bước theo Ngài sát hơn, cẩn thận hơn, để tới miền phục sinh.
Sau những lần té ngã, đầu tiên Ngài gặp Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ là chỗ nương tựa cho chúng ta, Đức Mẹ giúp chúng ta vác thập giá của cuộc đời của mỗi chúng ta. Chúa Giêsu có lúc khng6 đủ sức vác Thập Giá, ông Simon đã giúp Ngài vác Thập Giá, điều đó có nghĩa là chúng ta không vác thập giá một mình, và chúng ta phải cậy nhờ Đức Kitô giúp sức, như ông Simon đối với Ngài vậy.
Khi Ngài đứng dậy, bà Veronica đã lau mặt cho Ngài. Bà này đã động lòng trắc ẩn và cảm thương Chúa Giêsu, can đảm và sẵn sàng giúp Ngài mà không sợ người ta làm hại mình.
Rồi Chúa Giêsu lại té ngã lần nữa. Chúng ta cũng thường xuyên hăng hái quyết tâm sau khi được an ủi, nhưng rồi chúng ta lại sa ngã. Chúng ta cầu nguyện và cầu xin Chúa giúp, vậy mà chúng ta vẫn sa ngã! Đừng cho phép mình thất vọng, càng không được phép tuyệt vọng, Đức Kitô vẫn đồng hành với chúng ta và Ngài muốn chúng ta tiếp tục vác thập giá bước theo Ngài.
Cuối cùng, Chúa Giêsu gặp những người phụ nữ Giêrusalem. Họ không hiểu rằng Ngài vác Thập Giá vì họ và cho họ. Chúa Giêsu cảm thấy buồn khi gặp họ. Và Ngài lại té ngã lần nữa. Nhưng Ngài cố đứng dậy với sức nặng của Thập Giá. Chúng ta cũng vậy, mặc dù chúng ta thất vọng vì những người xung quanh, họ không hiểu nỗi khổ của chúng ta và không giúp chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phải đứng dậy theo lời mời gọi của Đức Kitô.
Vậy ai là người bị kết án trong dụ ngôn “Người Gieo Giống” kia? Không ai cả, nhưng ai từ chối đứng dậy với Đức Kitô trên đường đời sỏi đá, đó là người làm chết nghẹt hạt giống Lời Chúa.
Tội nào cũng có thể được tha thứ, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Đó là tội từ chối quyền tha tội và quyền phép toàn năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đứng lên sau những lần té ngã, cũng như Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết, thế nên chúng ta hãy hy vọng và tự tin đủ mức để có thể đứng dậy sau những lần vấp ngã. Dẫu có lúc thất vọng nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng!

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
Tối Mùa Chay, 7-3-2016

XIN NÓI MỘT LỜI

“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16).

Sự lãnh đạo và phục vụ đưa ra một viễn cảnh duy nhất tới sự sống và Thiên Chúa.
Trình thuật Mt 8:5-13 cho biết rằng, khi Chúa Giêsu vào Ca-phác-na-um, một viên đội trưởng của quân đội La Mã, dưới quyền ông có 60-80 người lính, đến gặp Chúa Giêsu và nói: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Chúa Giêsu bảo Ngài sẽ đến chữa cho người đầy tớ. Nhưng ông có cách nói rất lạ với niềm tin mãnh liệt.
Ông nói: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ‘Đi!’ là nó đi, bảo người kia: ‘Đến!’ là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: ‘Làm cái này!’ là nó làm”.
Chúa Giêsu rất ngạc nhiên: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Khi đó, viên đội trưởng đứng ngay bên Chúa Giêsu, và rồi người đầy tớ của viên đội trưởng đã được chữa lành.
Kinh nghiệm cho viên đội trưởng biết điều Chúa Giêsu khả dĩ thực hiện, nếu Ngài muốn. Nhưng phương diện ngạc nhiên của câu chuyện này là viên đội trưởng tin Chúa Giêsu là Đấng mà Ngài đã nói. Điều này làm cho viên đội trưởng cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài, nhưng sự quan tâm của ông dành cho người đầy tớ đã khiến ông can đảm để cầu xin Chúa Giêsu chữa lành.
Hôm nay, hãy biết rằng có sự khác biệt giữa LÒNG KIÊU NGẠO và LÒNG TỰ TIN. Thiên Chúa biết rõ tâm hồn bạn và muốn bạn tin tưởng và phó thác vào Ngài. Cũng như viên đội trưởng, bạn đã nhận biết Ngài là ai và sức mạnh của lời cầu nguyện. Hãy thật lòng tín thác vào Ngài!

Lạy Chúa Giêsu, thật kỳ lạ khi con được thưa chuyện với Đấng đã chữa lành cho người đầy tớ của viên đội trưởng ngày xưa. Câu chuyện này động viên con tự tin khi ở trước Thánh Nhan Ngài để tuyên xưng Ngài là Đáng mà Ngài đã xác nhận: Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ STRENGTH for SERVICE to GOD and COMMUNITY)

 

XÉT MÌNH

CÂY XÀ Ở MẮT MÌNH KHÔNG NGÓ THẤY
CÁI RÁC NƠI NGƯỜI KHÁC VẪN NHÌN RA
Tác giả Thánh Vịnh đã chân thành thân thưa với Chúa: “Ngài thấy cho: Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Sinh ra rồi phải rửa tội liền. Thế đấy, đời cha ăn mặn nên đời con khát nước. Kiếp phàm nhân yếu đuối vô cùng, hết sai này đến lầm nọ, hết lỗi này đến tội kia, ngày nào cũng thú nhận “lỗi tại tôi mọi đàng” mà vẫn chảnh, chẳng vừa chút nào: “Chân mình còn lấm bê bê – Lại cầm bó đuốc mà rê chân người” (ca dao).
Phàm nhân y như “siêu nhân” vậy, bởi vì có thể nhìn rõ lỗi-lầm-nhỏ của người khác mà lại không hề thấy tội-to-đùng của mình. Lỗi của người bỏ giỏ đeo phía trước ngực, tội của mình bỏ giỏ đeo phía sau lưng. Quái gở như thế đấy!

CÁI TỘI MỜI GỌI CÁI PHÚC
Thật chí lý khi Việt ngữ dùng chữ “ghét” để chỉ chất bẩn bám vào người mình và các tế bào chết. Đúng là “ghét” thật. Vừa tắm xong vẫn bẩn, xà-bông thơm hoặc sữa tắm cao cấp cũng chỉ là “vải thưa che mắt thánh”. Và tội lỗi cũng vậy, “rửa” hoài chưa sạch, thú tội hoài vẫn còn. Biết vậy không phải để buông xuôi mà là để nhận diện chính mình: “Biết người là khôn, biết mình là sáng. Người tri túc không bao giờ nhục. Lo thắng người thì loạn, lo thắng mình thì yên” (Lão Tử). Môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người hiền thì sáng, gần người tài thì thông, gần người lành thì có đức, gần người ngu thì dại, gần kẻ nịnh hót thì a dua, gần đứa tham lam thì trộm cắp” (Mạnh Tử). Ai yếu thì không nên ra gió, như người Việt đã có lời nhắn nhủ: “Chọn bạn mà chơi”.
Nhân vô thập toàn, đó là “bản chất” nơi con người chúng ta, và mỗi ngày chúng ta đều tự thú: Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Quá nhiều, không đếm xuể, “ớn” nhất là “tội trong tư tưởng”. Thật là khủng khiếp! Ai cũng bất toàn, nếu được cái này thì lại mất cái khác. Con-người-thật thì không hoàn hảo, con-người-hoàn-hảo thì không có thật – chỉ có trong truyện thần thoại, tiểu thuyết, phim ảnh hoặc là dạng “nhân vật ảo” (vtuber của Nhật). Không thể cầu toàn nơi người khác, bởi vì chính mình cũng bất toàn. Chân nhận như vậy để có thể cảm thông và tha thứ cho người khác, cố gắng tha thứ là tự hoàn thiện theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Thế nhưng… “cái tôi” rất cồng kềnh và nặng nề lắm, mặc dù nó nhỏ xíu mà thôi. Chữ TÔI “đơn sơ bổn thiện” mà lại khá rắc rối: Xét theo Việt ngữ, thêm dấu huyền thì Tôi hóa Tồi, thêm dấu sắc thì Tôi hóa Tối, thêm dấu nặng thì Tôi hóa Tội. Cỡ nào cũng… chết chắc!
Cái lưỡi có nhiều lợi ích, nhưng cũng gây lắm tai họa: “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18:21). Cái lưỡi nhỏ mà lắm chuyện, khiến người ta thất điên bát đảo: “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả, và cái lưỡi chính là mối họa cho con người” (Hc 5:13). Liên quan lời nói, tác giả sách Huấn Ca cho biết: “Sàng rồi, trấu ở lại sàng, nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay. Có thử lửa mới biết bình thợ gốm, nghe chuyện trò, biết ai rởm ai hay. Xem quả thì biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người. Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng: muốn biết người, phải nghe miệng nói năng” (Hc 27:4-7). Không ít người đã “chết” vì nghe lời nói ngon ngọt, lời hứa béo bở, đầu tiên là Ông Bà Nguyên Tổ. Cái vần “ối” thật hay: Có TỘI thì đừng CHỐI, mà phải VỘI vã sám HỐI – người cũ thành người mới.
Mật ngọt chết ruồi, quảng cáo là một dạng lừa bịp công khai mà người ta chấp nhận. Lời hay mà dùng không đúng nơi, không đúng lúc, không đúng người thì cũng vô ích, nhảm nhí, thậm chí còn có thể rước họa vào thân. Tội lỗi bởi lời nói, phúc đức cũng nhờ lời nói: “Thú vị thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya” (Tv 92:2-3). Người khôn ngoan là người “nói với Chúa và nói về Chúa”. An toàn tuyệt đối!
Những người đó ít nói với người khác nên có thể nhiều người không thích họ, vì người ta vốn dĩ “thích nói”, lắm điều, lắm chuyện,… thế nên người ta cho những-người-ít-nói là lầm lì, khinh người, kiêu kỳ. Trước mặt người đời thì họ “bất lợi”, thế nhưng đối với Thiên Chúa thì họ rất sung sức: “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng: Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công” (Tv 92:13-16).

CÁI PHÚC TỈNH THỨC CÁI TỘI
Trong 1 Cr 15:54-58, Thánh Phaolô lý luận về các “mối” đối lập – được gọi là khúc Khải Hoàn Ca. Thánh nhân phân tích: “Khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật”. Chắc chắn không có độc tố nào bằng tội lỗi, bởi vì các loại độc tố dù mạnh nhất cũng chỉ có thể làm chết thân xác, còn độc tố tội lỗi còn mạnh tới độ là chết linh hồn.
Trong cái xui có cái hên, trong cái rủi có cái may. Ông Bà Nguyên Tổ “ăn mặn” nên cả đời con cháu phải “khát nước”, nhưng Giáo Hội gọi đó là Tội Hồng Phúc (Exultet), vì nhờ đó mà chúng ta được đón nhận Con Thiên Chúa – Đấng Emmanuel. Mọi thứ đều trở nên hữu ích, là mối lợi thực sự. Thánh Phaolô nói: “Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích”.
Trình thuật Lc 6:39-45 có hai vấn đề được đề cập: Khôn Lỏi (Lc 6:39-42 ≈ Mt 7:3-5) và Hệ Lụy (Lc 6:43-45 ≈ Mt 7:15-20; 12:33-35).
1. KHÔN LỎI – Ở đây là dạng ranh ma, ngu mà chảnh, người Việt có cách nói là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô”. Là người mù, lo cho mình chưa xong mà lại muốn dạy khôn người khác, làm “thầy đời” người khác, thích bới lông tìm vết, khoái soi mói người khác, thế nên thấy cái rác nơi người mà không thấy cái xà nơi mình. Giống như người luôn dùng kính hiển vi, thấy ai cũng đầy vi trùng, trong khi chính mình đầy bọ chét mà cứ bảo là mình sạch. Kinh tởm thật!
Hôm đó, khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thực tế này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.
2. HỆ LỤY. Đây là vấn đề “nhân – quả” tất yếu: Cây nào trái ấy, xấu – tốt rạch ròi. Tương tự, sống sao thì chết vậy. Hệ lụy tất yếu được Chúa Giêsu minh định: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”. Bụng làm, dạ chịu. Có khi ma quỷ chưa cám dỗ mà mình đã sa ngã rồi. Đừng vội đổ lỗi cho nó, khôn hồn thì cứ “lỗi tại tôi mọi đàng” mà thôi!
Về tác hại của lời nói, Thánh Mátthêu cho biết rõ ràng hơn về lời nói của Chúa Giêsu: “Đến Ngày phán xét, người ta sẽ PHẢI trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì NHỜ LỜI NÓI của anh mà anh sẽ ĐƯỢC TRẮNG ÁN; và cũng TẠI LỜI NÓI của anh mà anh sẽ BỊ KẾT ÁN” (Mt 12:36-37). Xem xét là xét xem thế nào. Tự xét mình mà chấn chỉnh để mai ngày không bị Thiên Chúa phán xét. Đó là một mối phúc lớn!

Lạy Thiên Chúa nhân từ, con là kẻ vô duyên lắm, hầu như chẳng gặp may mắn, luôn gặp nhiều trắc trở, đôi khi con cũng buồn theo nhân tính, nhưng con tin rằng Ngài muốn con như vậy để vinh danh Ngài và đền tội con. Xin tha thứ cho con về những ước mơ không đúng ý Ngài, xin giúp con nhận diện chính chính con để có thể hoán cải và hành động theo đúng ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

CHỮ TÂM

HÃY NHÂN TỪ NHƯ THÁNH PHỤ NHÂN ÁI
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ CHÚA TRỜI THỨ THA

Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói riêng. Lòng nhân từ luôn liên quan sự tha thứ. Cụ thi hào Nguyễn Du đã biện luận: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa).
Chữ TÂM có khá nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (lòng, tình cảm), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,...
Chữ Tâm được đề cập ngay ở đầu Kinh Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm”. Nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó, thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, dẫu để tai mà chẳng nghe, dẫu ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho lòng (cái tâm) mình ngay thẳng.
Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Sa-un lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Đa-vít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đa-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì nằm chung quanh.
Ông A-vi-sai nói với ông Đa-vít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai”. Ông Đa-vít nói với ông A-vi-sai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?”. Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt”, nhưng ông Đa-vít vẫn có một tấm lòng – nhân từ và tha thứ.
Sau đó, ông Đa-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đa-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đa-vít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26:22-23). Đó là cái tâm cần thiết mà ông Đa-vít đã có.
Martin Luther King (1929-1968) có triết lý sống tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu”. Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17). Đó chính là dấu hiệu chứng tỏ ai thực sự là môn đệ của Ngài (Ga 13:35). Thánh Gioan nói rằng chúng ta không chỉ PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô mà còn PHẢI yêu thương nhau (1 Ga 3:23).
Cái “phải” đó không có nghĩa là ép buộc, mà là nhận thức và tự nguyện. Trong tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Lời tự nhủ đó là điều tâm niệm và tâm nguyện, đồng thời cũng là cách dẫn chứng để chính mình tâm phục khẩu phục – kể cả tha nhân.
Nhờ vào các nguồn đáng tin cậy khác nhau – từ cổ chí kim, cách riêng là chính kinh nghiệm sống tâm linh của mỗi người, chúng ta biết chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8-10). Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi nhân từ đến nỗi phàm nhân có lúc cảm thấy phân vân, thế nhưng Ngài thực sự là vậy, không thể khác được, bởi vì đó là bản chất của Ngài và chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ” (Xh 22:26). Và rồi Thánh Gioan cũng đã định nghĩa về Ngài: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Một định nghĩa ngắn gọn nhưng bao hàm tất cả.
Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai có thể nên thánh, chẳng ai có thể vào Thiên Đàng. Thế nhưng thật diễm phúc cho chúng ta, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:12-13). Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù nhỏ hay to, nhẹ hay nặng, khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Thần Khí – Chúa Thánh Thần (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Hữu tâm thì được tha, vô tâm thì đành chịu (hoặc ráng chịu).
Thánh Phaolô trích dẫn: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó” (1 Cr 15:45-46). Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. A-đam đầu tiên là nhân loại, A-đam cuối cùng là Đấng Tạo Hóa – Đức Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Chúng ta là loài người, mang thân bụi phận cát, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14).
Trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2) đề cập hai vấn đề, và cũng là hai mệnh lệnh: tình yêu thương và lòng nhân từ – yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Nói yêu thương thì không khó, thực hành yêu thương thì rất khó, nhưng không thể không làm, vì đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại”.
Lòng yêu thương vô cùng quan trọng, là thước đo lòng mến Chúa, và là “món nợ” mà ai cũng phải trả xong cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24). Và Thánh Gioan giải thích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Cách so sánh chí lý!
Thật vậy, Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Điều Ngài nói rất đời thường chứ chẳng xa rời thực tế. Tương tự, người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì cũng đừng làm cho người khác. Rồi Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC”. Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ chất dinh dưỡng như nhau. Nắng mưa chẳng cho riêng ai – dù người đó tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Thiên Chúa rất đại lượng và hào phóng, không ai phải chịu thiệt bao giờ. Ngài nhân lành nhưng chí công, và thời gian cũng có hạn.
Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3). Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể:
Dẫu xây chín bậc phù đồ (*)
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người
Đó là cái Tâm mà ai cũng phải có, gọi là “đạo làm người”, loại “đạo” này không phân biệt bât kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó.
Chẳng dễ gì để sống có cái Tâm, bởi vì không chỉ mệt mỏi mà còn khổ lắm, nhưng cái khổ đó rất có giá trị. Có lòng yêu thương thì sẽ có cái Tâm, và làm được điều kỳ diệu, như Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng”.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, luôn nhân hậu và giàu lòng nhân ái, xin biến đổi để chúng con có thể nhân từ với mọi người, sống nhân hậu như Ngài mong muốn, xin giúp chúng con biết hy sinh và chịu đựng nhau vì yêu mến Ngài, để đền tội của mình, để cầu nguyện cho tha nhân và các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU
(*) Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), Stupa (tiếng Phạn, nghĩa đen là “búi tóc”), hay Thạt (tiếng Lào, có gốc tiếng Phạn là Dhatu). Theo truyền thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật) hoặc là nơi tưởng niệm Phật và môn đệ có di thể. Phù đồ cũng được gọi là Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.

 

 

VŨ ĐIỆU TỘI LỖI

Vũ điệu là danh từ chỉ hành động liên quan niềm vui mừng, nhưng vũ điệu ở đây mang ý nghĩa khác biệt, bởi vì đó là Vũ Điệu Tội Lỗi. Vũ điệu này cũng bắt đầu từ niềm vui, nhưng niềm vui không đúng nơi, chẳng đúng lúc, thế nên nó hóa thành điệu sầu của tội ác.
Người ta thường nói: “Thuận ngôn nghịch nhĩ”. Sự thật rất có thể dễ làm mất lòng. Nghe lời chân thật nhưng vua Hêrôđê cảm thấy “không lọt tai” nên đã sai người bắt giam ông Gioan vô ngục tù. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê. Đó là tội loạn luân. Chắc hẳn phụ nữ này là “gái một con trông mòn con mắt” nên ông Hêrôđê đã “hoa mắt” rồi “mù lòa”, và ông bất chấp tất cả. Có điều lạ là chính ác phụ kia cũng khoái chí vì “cưa đổ” một quốc vương, và cũng lạ nữa là cô con gái của ác phụ này cũng vào hùa với phe quỷ dữ.
Tội đáng phải nhận án tử của ông Gioan là dám bảo vệ chân lý, không ngại can ngăn vua: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mc 6:18). Rõ ràng bà Hêrôđia có thể một phần cũng “phải lòng” ông Hêrôđê, một phần vì tự ái phụ nữ bốc lên tới chỏm đầu, tự ái vì không phụ nữ nào chịu mình kém sắc người khác, bà ta đâu thèm “cưa” mấy đám quan lại triều đình mà “cưa” chính nhà vua, và vua đã “ngã gục” trước cơn cám dỗ về nhục dục. Thế mà lại bị “phá đám” nên bà ta mới CĂM THÙ và MUỐN GIẾT ông Gioan, nhưng không thể được. Tự ái dồn dập, máu tức giận bốc cao như lửa cháy phát ra từ tòa nhà cao tầng. Phụ nữ muốn là trời muốn mà. Và còn hơn thế nữa, như người ta thường ví von: “Nhất vợ, nhì trời”. Bồ nhí còn “to” hơn vợ nữa, thế thì ghê gớm thật!
Chính vua Hêrôđê cũng biết rõ ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở cho ông. Nhưng khi nghe ông nói, nhà vua lại thấy PHÂN VÂN, thế nhưng vẫn THÍCH NGHE. Tình yêu gian tà khiến ông ta điên đảo và mù quáng. Biết ông Gioan công chính mà không dám bảo vệ. Hèn nhát! Ngày nay, hạng người như Hêrôđê cũng chẳng thiếu, nhưng con người thời @ có “phong cách” bí hiểm hơn nhiều, nói theo ngôn ngữ bình dân, như người ta thường gọi là “ném đá giấu tay” hoặc “giật dây”. Nham hiểm quá! Khủng khiếp thật!
Lòng gian tà như sóng ngầm cứ cuồn cuộn chảy, chưa thực hiện được thì chưa thỏa chí. Và một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào nhân sĩ miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia, cũng là cháu ruột vua Herôđê, vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích, hưng phấn cao độ.
Tiệc vui nào cũng không thể thiếu chất men cay, có lẽ nhà vua ngà ngà rồi nói với cô gái: “Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con” (Mc 6:22). Thậm chí vua lại còn thề: “Con xin gì, ta cũng cho, dù MỘT NỬA NƯỚC của ta cũng được” (Mc 6:23). Ôi thật tồi tệ, dám bán nước cho một đứa con gái nhãi ranh! Lão già dê Hêrôđê này không phải là tay vừa: Mê đắm mẹ mà vẫn khoái đứa con gái của mẹ nó. Mê quá hóa đắm đuối. Khổ là cái chắc!
Vừa nghe ông chú Hêrôđê nói vậy, cô cháu gái hí hửng đi hỏi mẹ xem nên xin gì. Mẹ cô lạnh lùng gằn giọng chắc nịch: “Đầu Gioan Tẩy Giả” (Mc 6:24b). Phụ nữ nham hiểm hơn đàn ông. Sóng ngầm mà! Mức độ nham hiểm càng thâm độc hơn khi hai cái đầu phụ nữ hợp lại. Đúng như khoa tâm lý phát hiện: “Khoảng giữa cái muốn và cái không muốn ở phụ nữ, dù chỉ một sợi tóc cũng không lọt”. Cô liền vội vã trở vào đến bên nhà vua và tâu xin: “Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm” (Mc 6:25). Nghe vậy, nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã TRÓT THỀ, lại thề công khai trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. Bản chất hèn nhát hiện rõ, sĩ diện không đúng lúc!
Và vì loại sĩ diện rác rưởi đó, vua lập tức sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. Dây chuyền tội lỗi xảy ra khi họ chuyền tay nhau cái thủ cấp mà họ cho là “chiến lợi phẩm”. Bi kịch chấm dứt não nùng quá! Bi kịch về cái chết của ông Gioan là chuyện bình thường, bi kịch về lòng người độc ác dành cho nhau mới đáng lưu ý, bởi vì điều đó quá kinh tởm!
Sự thật bị che khuất, lẽ phải bị bóp méo, công lý bị chà đạp, chính nghĩa bị xuyên tạc. Không chỉ vậy, người ta cũng vẫn thường xuyên thiếu tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – đủ dạng và đủ mức độ. Đó là bi kịch của con người tự tạo ra chỉ vì hướng theo cái xấu để thỏa mãn ý riêng. Và người ta cũng luôn có đủ lý lẽ để tự biện hộ cho những động thái sai trái của mình, không hề muốn phục thiện. Đó là loại tội không được tha ở đời này và đời sau. Thật đáng sợ!
Có nhiều vấn đề liên quan chính nghĩa, sự thật, lẽ phải, công lý, công bình,… Một trong các vấn đề liên quan là vấn đề tự do tín ngưỡng. Theo lời mời của chính phủ Việt Nam, ông Heiner Bielefeldt – báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng – đã có chuyến viếng thăm Việt Nam từ 21 đến 31-7-2014. Trong tuyên bố báo chí 13 trang bằng Anh ngữ và Việt ngữ, ông Heiner Bielefeldt đã thẳng thắn phê phán việc ông “bị” công an “giám sát chặt”, và một số người ông muốn gặp đều “bị đe dọa, sách nhiễu”. Ông cho biết rằng thực tế vẫn có “vi phạm nghiêm trọng” về tôn giáo tại Việt Nam, mặc dù Việt Nam đã có “một số chuyển biến tích cực”. Sự thật mãi là sự thật, không thể che giấu, cũng không thể bóp méo hoặc viện cớ bất kỳ lý do nào. Thế mà ngày nay vẫn có những loại người trơ trẽn, biện hộ đủ kiểu theo đúng quy trình gian dối: Làm láo, báo cáo hay.
Người chính trực là người cương quyết “thà chết vinh hơn sống nhục”, mặc dù chỉ trong lĩnh vực nhỏ như làm bài kiểm tra hoặc thi cử ở trường học. Thẳng thắn với chính mình mới thực sự là thẳng thắn. Ngày xưa, danh tướng Trần Bình Trọng vẫn hiên ngang bất khuất dù bị giặc bắt, và ông vẫn khẳng khái tuyên bố: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Danh tướng Trần Bình Trọng hy sinh vì chính nghĩa, vì đại nghĩa, vì ích nước lợi nhà, chứ không hèn hạ như lũ người tham quyền cố vị, dù bất tài vô dụng.
Cái chết của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng là cái chết vì chính nghĩa. Đó là tiếng chuông cảnh báo về tình trạng sa sút đạo đức của xã hội loài người – cách riêng tại Việt Nam, là tiếng kêu tỉnh thức những tâm hồn mê muội, là lời thúc giục chúng ta sám hối và tin yêu “vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2; Mt 4:17).
Chí sĩ Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại Cáo” theo hai nguồn cảm hứng: cảm hứng SÁNG TÁC và cảm hứng CHÍNH TRỊ. Cảm hứng chính trị đem đến cho lịch sử dân tộc một BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP đầy ý nghĩa. Thánh GH Phaolô VI minh định: “Chính trị là một trong những hình thức bác ái cao nhất”. Xưa nay chúng ta hiểu chưa đúng về chính trị. Thật lạ, người ta nói rằng làm từ thiện cứu được một số người, làm bác sĩ cứu được nhiều người, làm chính trị cứu được cả một dân tộc. Thật chí lý!
Chính nguồn cảm hứng sáng tác của cụ Nguyễn Trãi đã tạo ra cho lịch sử văn học nước nhà một kiệt tác văn chương. Hoà quyện cả hai nguồn cảm hứng, dân tộc Việt Nam có được “Bình Ngô Đại Cáo” – áng thiên cổ hùng văn (bài văn hùng tráng của muôn đời).
Phân tích “Bình Ngô Đại Cáo” xuất phát từ cảm hứng sáng tác của tác giả, chúng ta sẽ nêu bật được những giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Cảm hứng về chính nghĩa thể hiện ở hai dạng: nhận thức sâu sắc về nguyên lý chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lý đó. Mở đầu “Bình Ngô Đại Cáo”, chí sĩ Nguyễn Trãi nêu nguyên lý làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài “cáo” đó.
Trong nguyên lý chính nghĩa của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy có hai nội dung chính được nêu lên: Nguyên lý NGHĨA – một nguyên lý có tính chất chung của các dân tộc và nhiều thời đại, và CHÂN LÝ đó thuộc về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của Nước Đại Việt đã được chứng minh bằng lịch sử thực tiễn.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại chuyện một chí sĩ khác là Phạm Ngũ Lão. Ông là người đã từng ngồi đan sọt, lo nghĩ việc nước (việc chung, đại sự) mà quên cả bản thân. Người ta lấy giáo đâm vào đùi ông mà ông không biết. Đó là lời nhắc nhở đối với Kitô hữu chúng ta: Liệu chúng ta có mê say Chúa và lo việc Thiên Quốc đến mức quên mình như chí sĩ Phạm Ngũ Lão lo quốc sự trần gian? Có lẽ chúng ta không dám trả lời, vì quá xấu hổ!
Thế nào là chính nghĩa? Có lẽ chúng ta hiểu mà khó giải thích. Nói chung, người ta hiểu đó là “lẽ phải”, là “cái người ta PHẢI theo, PHẢI giữ”. Chắc hẳn khó có một định nghĩa xác đáng làm thỏa mãn mọi người, tạm hiểu là những-gì-được-công-nhận-theo-lương-tâm-chính-đáng. Lưu ý cụm từ “công nhận” và “lương tâm chính đáng”, vì không thể chấp nhận “lương tâm lệch lạc”.
Nói chung, chính nghĩa là công lý (justice, bons sens), liên quan rất gần với sự thật và lẽ phải. Chính nghĩa cũng đa dạng: Chính nghĩa dân tộc, chính nghĩa tôn giáo, chính nghĩa cá nhân, chính nghĩa độc tài, chính nghĩa tự do, chính nghĩa cộng sản, chính nghĩa tư sản, chính nghĩa dân chủ, chính nghĩa chuyên chế,... Chính nghĩa đa dạng lắm. Ở đây, chúng ta không đủ trình độ để nói về đa dạng chính nghĩa, nên chúng ta chỉ nói về chính nghĩa chân lý – chính nghĩa của Thiên Chúa.
Từ xa xưa, tiền nhân đã dày dạn kinh nghiệm nên mới ví von: “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”. Câu nói chỉ đơn giản như vậy mà lại “nhức nhối” lắm. Bà-cô-không-chồng chẳng nghĩa lý gì, nhưng bà cô đó lại có thể “làm mưa, làm gió” trong một gia đình, mà gia đình chính là nền tảng xã hội. Ôi chao, cứ ngỡ đó chỉ là “chuyện nhỏ” mà lại không hề nhỏ chút nào. Bà cô là “bà nhỏ” mà bỗng dưng hóa thành “bà lớn”. Kể ra thì phụ nữ cũng “đáng gờm” thật đấy!
Chân lý không xa chính nghĩa. Chân lý cũng là chính nghĩa – và ngược lại. Tại sao người ta KHÔNG tỵ nạn vì sợ sự tự do? Vì người ta YÊU QUÝ sự tự do. Tại sao người ta PHẢI tìm mọi cách tỵ nạn cộng sản? Vì người ta GHÊ SỢ cộng sản. Vậy đâu là chính nghĩa? Chắc hẳn không cần phải nói thêm gì nữa. Tương tự, tại sao người ta biết theo Chúa là KHỔ và phải CHẾT mà người ta vẫn cứ theo? Vì Chúa là CHÍNH NGHĨA – chính nghĩa của công lý, của hòa bình, của Đức Kitô.
Cái chết của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là cái chết OAN nhưng không UỔNG, mà lại đầy Ý NGHĨA. Trong cuộc sống, làm tiểu nhân rất dễ, làm quân tử mới khó biết bao! Theo Đức Khổng Tử, đây là bí quyết: “Đạo làm quân tử có BỐN điều đúng: MẠNH DẠN khi làm điều nghĩa, NHŨN NHẶN khi nghe lời can gián, LO NGHĨ khi nhận bổng lộc, và CẨN THẬN đối với việc sửa mình. Đời có BỐN cái lo: Lo ĐỨC ÍT mà Được Sủng Ái Nhiều, lo CÔNG ÍT mà HƯỞNG BỔNG LỘC NHIỀU”. Cả đời tiến hóa mà con thú không thể trở thành con người, nhưng chỉ trong phút chốc, con người có thể trở nên như thú vật. Kinh dị, kinh tởm, kinh khiếp, kinh hãi, kinh khủng, và... kinh hoàng!

Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con vì đã nhiều lần hèn nhát khi đối diện sự thật chân chính, xin tái tạo trái tim của chúng con nên mới, xin đổ đầy niềm yêu mến chân lý vào đó để chúng con can đảm nói sự thật, đấu tranh cho chính nghĩa, bảo vệ công lý và công bình.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin đồng hành với chúng con và luôn cầu giúp nguyện thay cho chúng con, những người còn đang miệt mài lữ hành trần gian đầy những cạm bẫy xảo trá và mưu mô xảo quyệt. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU


 

ttt - March 4, 2022