suy niệm , năm C-2016

by Trầm Thiên Thu

March 22, 2016

GIỜ THƯƠNG XÓT

(Thứ Sáu Tuần Thánh – Ngày Đại Tang)


Bửu Huyết Giêsu tươi màu Cứu Độ
Oan khiên thế giới hóa sắc trong ngần


Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại – nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!


Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và đãm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như thăm thẳm! Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.


Chúa Giêsu có hai bản tính: Thần Tính và Nhân Tính (1). Về nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay, và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ, tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!


CON CHIÊN HÀM OAN


Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).


Chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh Thánh cũng đã nói: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại hoàn toàn là sự thật!
Ngôn sứ Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!


Bảng đối chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy chịu đủ thứ khổ hình vì các tội nhân là chúng ta, chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy hoàn toàn vô tội.


Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng ta!


Thánh Vịnh đã nói lời cuối của Người Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).


Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18). Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.


Thánh Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi còn sống kiếp phàm nhân, và theo nhân tính, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lócdâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào! Nhưng chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang.


ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ


Phúc Âm hôm nay là bài trường ca đau khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu biết bao!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong mười hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga 12:1-8; x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bê-ta-ni-a.


Người ta đã tìm mọi cách gài bẫy, lục soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực”, thế nên họ làm mọi cách hạ nhục Ngài đủ mưu đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói “chính tôi đây”, họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là người đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài – tức là bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu nổi!


Họ lồm cồm bò dậy. Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu Nadarét”. Họ vẫn không hề tởn chút nào. Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.


Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!


Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!


Mặc dù Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì, không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan nào!


Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!


Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không nhận và nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô “dốt đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).


Theo tục lệ của người Do Thái, vào mỗi dịp Lễ Vượt Qua, họ thường phóng thích cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ la to: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương mến và yêu quý hơn là Chúa Giêsu. Lạy Chúa tôi!


Thế là tổng trấn Philatô truyền đem Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài đã bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).


Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người đó quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói ngả, nói nghiêng, nói xuôi, nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô cũng đành cho thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập Giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp (2). Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!


Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.


Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế, Giáo hội không cử hành thánh lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá và rước lễ.
Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”, nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).


Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”. Ui da! Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!


Giờ Thương Xót đã điểm. Người được lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas, tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Diễm phúc biết bao!


Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội cầu nguyện cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm thực hành lời Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa Giêsu thương xót, chúng ta không thể không thương xót người khác!


Ơn Cứu Độ thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta nên trắng ngần. Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.


Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Thần Tính và Nhân Tính (8+8=16) của Chúa Giêsu:


● THẦN TÍNH: Ngài được tôn thờ (Mt 2:2 và 11; 14:33); Ngài được gọi là Chúa (Ga 20:28; Dt 1:8); Ngài được gọi là Con Thiên Chúa (Mc 1:1); Ngài được người ta cầu xin (Cv 7:59); Ngài vô tội (1 Pr 2:22; Dt 4:15); Ngài biết mọi sự (Ga 21:17); Ngài ban sự sống đời đời (Ga 10:28); Sự viên mãn của thần tính có nơi Ngài(Cl 2:9).


● NHÂN TÍNH: Ngài tôn thờ Chúa Cha (Ga 17); Ngài được gọi là người (Mc 15:39; Ga 19:5); Ngài được gọi là Con Người (Ga 9:35-37); Ngài cầu nguyện với Chúa Cha (Ga 17); Ngài bị cám dỗ (Mt 4:1); Ngài lớn lên trong sự khôn ngoan (Lc 2:52); Ngài chịu chết (Rm 5:8); Ngài có xương thịt (Lc 24:39).


(2) Híp-ri: יסוע נצריא מלכא דיהודיא; Latin: Iēsus Nazarēnus, Rēx Iūdaeōrum; Hy Lạp: Ιησουσ Ο Ναζωρεοσ Ο Βασιλευσ Των Ιουδαιων.

 

NƠI NÀO CÓ ƠN CỨU ĐỘ ?


“Không có ơn cứu độ ngoài Giáo hội”. Một lời khẳng định thật đáng sợ! Hẳn là bạn đã có lần nghe nói như vậy, Nhưng bạn có biết câu đó phát xuất từ đâu? Câu đó trong một lá thư của Thánh Xi-pri-a-nô (Cyprian) thành Alexandria.
Những người dị giáo mà Thánh Xi-pri-a-nô nói tới ở đây là những người “tuyên xưng giả dối về Đức Kitô”, nghĩa là họ mang danh “Kitô hữu” nhưng lại sống và thực hành những điều không liên quan Kitô giáo. Những người theo tà thuyết Albigensian (*) uống thuốc bột để “tự giết mình chết dần” (slow suicide) vì danh Đức Kitô, họ cho rằng các bí tích từ con người chứ không bởi Đức Kitô. Thật ra người ta không thể tự tử “vì Đức Kitô” vì Đức Kitô không muốn ai tự tử. Người ta không thể từ chối giá trị của bí tích “nhân danh Đức Kitô” vì các bí tích của Đức Kitô đều có giá trị.
Tuy nhiên, lời xác quyết của Thánh Xi-pri-a-nô đã được lặp lại và được tái sử dụng theo nhiều ý nghĩa, không chỉ được áp dụng cho những người dị giáo mà còn được áp dụng cho cả người vô thần và bất kỳ ai thuộc các tôn giáo khác. Nhưng Giáo hội thực sự dạy điều gì? Và điều đó có nghĩa gì đối với người vô thần hoặc vô tín ngưỡng?
Lưu ý: Các bí tích ràng buộc với ơn cứu độ, ơn cứu độ không ràng buộc với các bí tích.
Nói cách khác, việc tham dự vào đời sống bí tích sẽ trực tiếp dẫn tới ơn cứu độ. Nếu bạn lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, nếu bạn chết sau khi lãnh nhận bí tích Hòa Giải và lãnh nhận Thánh Thể, rất có thể bạn được vào Nước Trời. You might have to take some time trong Luyện Hình along the way, nhưng bạn sẽ lên trời. Chúa Giêsu xác quyết: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5). Cách hiểu rõ ràng nhất là người ta PHẢI được rửa tội để vào Nước Trời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không giới hạn quyền cứu độ của Ngài. Giáo hội biết rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ qua các bí tích, nhưng Giáo hội không tự phụ mà nghĩ rằng Thiên Chúa bị giới hạn bởi các bí tích là phương tiện duy nhất để được cứu độ. Thiên Chúa có thể sắp xếp để con người “được tái sinh bởi nước và Thần Khí” theo cách của Ngài. Điều đó có ý nghĩa? Có thể là khi tụng niệm và khi vất vả đi tìm Chân Thiện Mỹ mà người ta “gặp” được Thiên Chúa theo cách nào đó. Nếu Thiên Chúa muốn cứu độ ai, và nếu người đó mở lòng ra với ơn cứu độ, thì việc không lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy không phải là không được cứu độ.
Đây là ẩn dụ: Nếu bạn muốn đi từ Washington D.C. tới Philadelphia, bạn có thể đi đường I-95. Có thể xe bị hư dọc đường, nhưng rồi bạn cũng sẽ tới đó. Thậm chí bạn có thể ra khỏi xe và đi bộ dọc theo đường I-95 để tới Philadelphia. Hãy cố gắng luôn đi trên xa lộ. Giáo hội Công giáo giống như xa lộ I-95 dẫn từ đất tới trời. Nếu tuân thủ luật giao thông và nỗ lực bám sát theo đường đi, bạn sẽ tới Nước Trời. Có thể mất nhiều thời gian, có thể gặp khó khăn, chán nản hoặc phiền phức, nhưng rồi bạn sẽ tới nơi. Các giáo phái khác giống như những con đường khác cũng dẫn tới Philadelphia.
Đa số các Giáo hội Kitô giáo khác giống như Route 1, chạy song song với xa lộ I-95 nhưng cũng đưa bạn qua một phần Baltimore và có thể ghé vào. Có nhiều lối đi từ Washington D.C. tới Philadelphia mà không đi qua Route 1 hoặc I-95. Người ta cũng có thể tới Detroit trước rồi tới Philadelphia, hoặc đi mọi con đường, hoặc tắt hệ thống định vị toàn cầu và dựa vào mặt trời. Đó là các tôn giáo khác, có thể bạn bị lạc nhưng cuối cùng vẫn có thể dẫn bạn tới Nước Trời. Nếu đi đường I-95 (vâng lời và hiệp nhất với Giáo hội Công giáo) chắc chắn đưa bạn tới Philadelphia.
Tuy nhiên, đường I-95 không có vẻ là con đường duy nhất dẫn tới Philadelphia, và Giáo hội Công giáo không phải là con đường duy nhất dẫn tới Nước Trời, nhưng là con đường trực tiếp, rõ ràng và bảo đảm.
Ơn cứu độ được trao ban cho những người hợp tác với Ý Chúa, bạn không thể là người ngoài Công giáo mà không hợp tác. Nếu bạn tin kính Thiên Chúa Ba Ngôi, tin tưởng Giáo hội Công giáo và không tuân thủ các giáo huấn của Giáo hội, vậy là bạn chẳng đi trên con đường nào (không trên đường I-95 hoặc Route 1, hoặc bất kỳ con đường nào khác) để có thể tới Nước Trời, chính bạn đã tự ý tránh ơn cứu độ.
Đức Giêsu đã nói rạch ròi với người Do Thái: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:22-30).
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
_____________________
(*) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo.

 

ĐỊNH MỆNH

Trong cuộc sống đời thường, chúng ta nghe nói nhiều đến “định mệnh” – với các cách gọi khác nhau: Số mệnh, Số Kiếp, Thiên Mệnh, Thiên Định,… Khái niệm này phổ biến ở những người ngoài Kitô giáo, và ngay cả các Kitô hữu cũng vẫn còn “nét” của khái niệm đó. Chúng ta thường cho đó là dị đoan, mê tín. Có phần đúng và có phần sai. Nếu vui vẻ chấp nhận, không đòi hỏi, đó là ĐÚNG. Nhưng nếu chống lại số phận, muốn “giải hạn”, đó là SAI.


TỪ CHUYỆN ĐỜI...
Nhà soạn nhạc lừng danh Ludwig van Beethoven (người Đức, sinh: 17-12-1770, mất: 26-3-1827) đã soạn bản giao hưởng “Định Mệnh” (1) khi ông cảm thấy có triệu chứng bị điếc. Những cung điệu như những tiếng “gõ cửa” của Thần Số Mệnh. Cũng với khái niệm “số nghèo” và “số khổ”, ca dao Việt Nam ví von:
Cây khô tưới nước cũng khô,
Người nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo!
Về “số phận” của con người, cụ Nguyễn Du cũng đề cập trong Truyện Kiều (câu 3241-3244) thế này:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
BẮT phong trần PHẢI phong trần
CHO thanh cao mới ĐƯỢC phần thanh cao
Người ta nói vui mà thật rằng: “Giày dép còn có số kia mà!”. Về sự giàu – nghèo, người ta nói: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra”. Về sang – hèn, người ta nói: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Số phận hoặc định mệnh là một “hằng số bí ẩn”, chẳng ai hiểu hết. Có khi người ta có thể “vượt qua số phận”, nhưng có khi phải chịu lận đận đến lúc nhắm mắt, xuôi tay!
Phàm cái gì càng bí ẩn thì càng gợi tính tò mò ở con người. Do đó, người ta bày ra đủ trò: Tử vi, bói toán, bói chữ, bói bài, xem tướng, xem chỉ tay, xem tuổi, xin xăm, gieo quẻ,... Nhưng rồi cũng chẳng ăn thua gì, kẻ khổ vẫn khổ, người giàu vẫn giàu, ai hên cứ hên, ai xui cứ xui. Dù miệt mài tìm cách lý giải nhưng người ta cũng đành chấp nhận… số phận!
Bói ra ma, quét nhà ra rác. Những người tin vào “thầy, bà” là những người yếu bóng vía, nhẹ dạ cả tin nên bị lừa. Nếu “thầy, bà” đó biết chuyện tương lai sao không tự bói cho mình? Biết người nào hạp tuổi sao không cưới ngay cho mình hoặc con cháu mình? Biết giờ nào tốt sao ráng đợi đến giờ đó mà sinh hoặc chết? Chính “thầy, bà” đó có cải được mệnh trời đối với cuộc đời họ hay không? Mấy việc “thực tế” đó mà không “định” được, không làm được, như vậy “định” mấy chuyện khác chỉ là lừa bịp. Ai nghe theo loại “thầy, bà” này không chỉ dại dột mà còn ngu xuẩn. Thế mà có những người “đầy bụng chữ” vẫn tin “thầy, bà” thì đúng là “hết nước nói”!
Trong thực tế, chúng ta cũng vẫn thấy có những người yếu về thể lý nhưng lại mạnh mẽ về tinh thần. Họ không đầu hàng “số phận”, quyết không ngừng vươn lên, và có những người đã không chỉ vượt qua chính mình mà còn vượt qua số phận. Thầy “phán” ông Trần Đức Quý (2) sẽ “mãn phần” (chết) lúc 30 tuổi, thế nhưng nay ông vẫn sống khỏe ở tuổi 97 với “cô vợ” 83 tuổi tại Saigon.
Và rồi còn nhiều người khuyết tật đã đạt được sự thành công nào đó, về các phương diện, khiến những người bình thường cũng phải khâm phục.
Những người ngoài Kitô giáo mà tin bói toán thì còn có thể “châm chước” mà… thông cảm. Nhưng đáng buồn là có các Kitô hữu, thậm chí là người Công giáo, vẫn mua sách tử vi (bán dạo ngoài đường, loại sách “ba xu”) để về nhà “ngâm cứu”, hoặc họ “rỉ tai” nhau những chuyện “siêu phàm” nào đó. Họ bảo là họ tin kính Thiên Chúa mà họ lại bỏ quên Ngài ở đâu rồi?
Đó là vấn đề “nóng hổi” cần xem xét ngay, nhất là trong những ngày của Mùa Chay Thánh – đặc biệt là Tuần Thánh, cao điểm là Tam Nhật Thánh, để kịp trở về trước khi quá muộn, vì “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2).


...TỚI CHUYỆN ĐẠO
Xuyên suốt Kinh thánh, chúng ta cũng thường “gặp” rất nhiều từ như Tiền Định, Chọn, Tuyển Chọn, Số Phận, Số Kiếp, Thân Phận,… Đó là những cách nói khác nhau về “khái niệm” Định Mệnh. Trong các thư gởi các giáo đoàn, Thánh Phaolô cũng nhắc tới chữ “tiền định” 5 lần (x. Rm 8:29; Rm 8:30; 1 Cr 2:7; Ep 1:5; Ep 1:11).
Dân Si-on đã có những người than thở: “Tôi vốn là kẻ đã mất con, là người son sẻ, THÂN PHẬN lưu đày, SỐ KIẾP lẻ loi” (Is 49:21). Tác giả Thánh Vịnh cũng kêu van: “THÂN PHẬN con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa!” (Tv 70:6).
Khi bị mù, ông Tô-bi-a tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi SỐ KIẾP gian khổ này” (Tb 3:6). Tác giả Thánh Vịnh cũng từng van nài Thiên Chúa: “Xin đừng bắt con đồng SỐ KIẾP với tội nhân, chung vận mạng với phường khát máu” (Tv 26:9).
Khi được mai mối với nàng Sa-ra, chàng Tô-bi-a hoảng sợ vì cô này đã được gả cho 7 anh chàng rồi, nhưng anh chàng nào cũng chết tươi ngay trong đêm động phòng hoa chúc, vả lại Tô-bi-a là con một, sợ cũng phải “chung số phận” với bảy anh chàng kia thì... tuyệt tự, “giống má” tiêu mất! Thật ra nàng Sa-ra còn trinh tiết, “không hề vương ô uế của đàn ông” (Tb 3:14). Và Sứ thần Ra-pha-en động viên chàng Tô-bi-a: “Đừng sợ, vì cô được TIỀN ĐỊNH làm vợ em từ trước muôn đời” (Tb 6:18). Chu choa, định mệnh ư, Ý Chúa hả?
Đời là bể khổ. Khổ đủ kiểu, đủ mức. Khổ hải trần ai mênh mông quá, ngụp lặn hoài muốn nín thở luôn! Như Thánh Gióp kêu than: “Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, SỐ PHẬN của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7:3). Quả thật, kiếp người chồng chất đau khổ, sinh ra khóc liền kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa “rành sáu câu” lắm, thế nên Ngài sai chính Con Một là “Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm” (1 Tm 3:16) để chia sẻ và động viên chúng ta ráng mà chịu đựng kiếp phàm nhân yếu hèn và “dính” đầy tội lỗi.
Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê ngang ngược, Chúa cho thân thể ông đầy giòi bọ cứ nhung nhúc, mùi hôi thối bốc ra khiến chính ông cũng không chịu nổi. Khi toàn thân đã rữa, ông mới bắt đầu chừa được thói kiêu ngạo thái quá, mới BIẾT THÂN BIẾT PHẬN nhờ trận đòn Thiên Chúa giáng xuống và nhờ những cơn đau không ngớt hoành hành. Ông phải thú thật: “Suy phục Thiên Chúa là phải đạo. Đã mang thân phận phải chết, thì đừng nghĩ sẽ bằng được Thiên Chúa” (2 Mcb 9:12). Nhưng đã “hết giờ thương xót” của Chúa (2 Mcb 9:13). Vì ông là “vua sát nhân và lộng ngôn, ông đã phải chịu đau đớn kinh khủng như chính ông đã làm cho người khác phải đau khổ, ông đã chịu SỐ PHẬN HẨM HIU là kết liễu cuộc đời nơi đất khách quê người, trên miền rừng núi” (2 Mcb 9:28). Vua An-ti-ô-khô không thể vượt qua số phận!
Trong Cựu ước, “định mệnh” cũng được mô tả bằng những cách nói khác:
– Chúa LOẠI BỎ nhà Giu-se, chi tộc Ép-ra-im, Người KHÔNG TUYỂN CHỌN, nhưng TUYỂN CHỌN chi tộc Giu-đa và núi Sion, nơi Người ưa thích (Tv 78:67-68).
– Đức Khôn Ngoan tự ca ngợi: “Ta được tấn phong TỪ ĐỜI ĐỜI, từ nguyên thuỷ, trước khi có mặt đất” (Cn 8:23).
– Bài ca của ông Mô-sê có câu: “Ngoài thì lưỡi gươm sẽ làm chúng mất con, trong thì là nỗi kinh hoàng. Cả trai tráng lẫn người trinh nữ, trẻ đang bú cũng như người bạc đầu sẽ chung SỐ PHẬN” (Đnl 32:25).
– Thiên Chúa tuyên phán: “Ta đã CHỌN chúng làm của riêng Ta” (Ds 8:16). Quả thật, dân Ít-ra-en là dân riêng được Thiên Chúa ưu tuyển: “Thiên Chúa đã CHỌN anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất” (Đnl 7:6).
– Vua Đa-vít xác nhận: “Trước nhan Đức Chúa, Đấng đã CHỌN tôi thay vì thân phụ bà và cả nhà thân phụ bà, để đặt tôi làm người lãnh đạo dân Đức Chúa là Ít-ra-en” (2 Sm 6:21).
– Vua Đa-vít hỏi người Cút: “Cậu Áp-sa-lôm có được bình an không?”. Người Cút trả lời: “Ước chi các kẻ thù của đức vua là chúa thượng tôi và mọi kẻ đứng lên chống lại ngài để làm hại ngài, đều phải chung một SỐ PHẬN như cậu ấy!” (2 Sm 18:32).
– Vua Sa-lô-môn sai sứ đi thưa với vua Khi-ram: “Nay thì Đức Chúa cho tôi được bốn bề yên ổn, không có người chống đối, cũng chẳng gặp SỐ PHẬN rủi ro” (1 V 5:18).
– Vua Gia-róp-am nói với phu nhân đi gặp ngôn sứ A-khi-gia để biết số phận của Hoàng tử A-vi-gia đang lâm bệnh: “Bà hãy mang theo mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, một bình mật ong và đến gặp ông. Ông sẽ nói cho bà biết về SỐ PHẬN đứa trẻ” (1 V 14:3).
– Ông Ra-gu-ên bảo vợ ông là bà Ét-na đi dọn một phòng khác rồi dẫn Xa-ra tới đó. Bà đi vào phòng trải giường như ông đã nói, và dẫn con vào. Bà oà lên khóc vì SỐ PHẬN cô, rồi lau nước mắt và nói với cô: “Con ơi, hãy tin tưởng! Xin Đức Chúa trên trời cho buồn phiền của con biến thành hoan lạc. Cứ tin tưởng đi con!” (Tb 7:15-17).
– Ông Moóc-đo-khai nói: “Thiên Chúa đã làm ra hai SỐ PHẬN: một dành cho dân Thiên Chúa, và một dành cho mọi dân tộc. Hai SỐ PHẬN ấy đã được thể hiện cho mọi dân tộc vào đúng giờ, đúng buổi, đúng ngày Thiên Chúa đã ấn định” (Ét-te 10:3g-3h).
Định mệnh thật kỳ lạ, nhưng cũng thú vị lắm!
Tác giả Thánh Vịnh nói: “Phúc thay kẻ được Ngài TUYỂN CHỌN và cho ở tại khuôn viên đền Ngài” (Tv 65:5). : “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:7). Cả chương 14 trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô nói về thứ bậc các đặc sủng cũng vì mưu cầu ích chung.
Thật chí lý với câu nói về “định mệnh” trong sách Huấn Ca: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang THÂN PHẬN con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu A-đam, nợ phong trần đương nhiên phải trả” (Hc 40:1).
Người xưa nói: “Đức năng thắng số”. Sống tốt thì có thể cải được mệnh trời. Về việc này, cụ Nguyễn Du cũng nói trong Truyện Kiều: “Xưa nay nhân định thắng thiên đã nhiều” (câu 420). Thực tế cuộc sống cho chúng ta thấy nhiều tấm gương nghị lực về vấn đề này.
Về tôn giáo, đặc biệt trong Mùa Chay, chúng ta thấy một chuyện “nổi bật” là dân thành Ni-ni-vê đã cải được “mệnh trời”. Một trong hai: một chuyện mà hai chuyện.
Chuyện thứ nhất là chuyện ngôn sứ Giô-na muốn cãi lệnh Chúa nhưng không được, ông bị ném xuống biển và bị cá nuốt vô bụng, sau đó nó nhả ông trên bờ biển gần thành Ni-ni-vê (x. Giô-na chương 1 & 2). Thế là “chạy trời không khỏi nắng”. Ông đành phải đi kêu gọi dân thành này ăn năn sám hối.
Chuyện thứ hai là dân thành Ni-ni-vê được Thiên Chúa tha án tử nhờ biết nghe lời ông Giô-na mà ăn chay. Họ ăn chay triệt để chứ không ăn chay khơi khơi cho có vẻ: Từ vua tới dân, từ già tới trẻ, từ người tới vật, tất cả đều “ăn chay và mặc áo vải thô”, nhà vua còn “ngồi trên đống tro và khoác áo vải thô”. Do đó, “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:10).
Dân thành Ni-ni-vê đã thay đổ số phận, vượt qua định mệnh, rõ ràng là “đức năng thắng số”.
Trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, chúng ta đừng thụ động, đừng thúc thủ trước gian nan, đừng buông xuôi theo số phận, đừng “phó mặc” cho số mệnh, đừng thất vọng tới mức sống xả láng, bất chấp mọi thứ. Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp. Thiên Chúa không thử thách chúng ta, vì Ngài thừa biết chúng ta thế nào. Ngài muốn chúng ta tích cực để đáng được nhận công trạng. Chứ Ngài mà “ra tay” một cái là xong ngay thôi!
Đến đây, chúng ta cũng nên xem lại chính mình: Đừng vội chê trách những người có “số phận” kém may mắn hơn mình, dù trong bất cứ lĩnh vực nào!
Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế vì hết mực yêu thương chúng ta, vô vàn thương xót chúng ta, Ngài không chỉ muốn đồng cam cộng khổ với số phận phàm nhân của chúng ta, mà Ngài lại còn chịu chết thê thảm trên Thập Giá để cứu độ những tội nhân khốn nạn chúng ta. Đó là Định Mệnh vậy!


Lạy Thiên Chúa, chúng con muôn phần xin lỗi Ngài, nhưng chúng con cũng vô cùng cảm tạ Ngài đã tạo Định Mệnh nhiệm mầu, nhờ đó mà chúng con được “sáng mắt” để có thể sớm trở về chính lộ.

 

TRẦM THIÊN THU


(1) Destiny Symphony: