Suy Nệm của Huệ Minh
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa (2022)
Is 55:1-11; Is 12:2-3,4,5-6; 1 Ga 5:1-9; Mc 1:7-11
SỐNG BÍ TÍCH THANH TẨY
Lễ nghi của phép rửa tội là một lễ nghi tuyệt đẹp. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được chính thức nhận một tên, và được đón tiếp vào gia đình của dân Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện thật đáng yêu được đọc lên cho chúng ta. Thân thể chúng ta được ghi dấu thánh giá, dấu hiệu tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Nước được đổ xuống trên chúng ta. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa, chúng ta được tẩy rửa khỏi tội lỗi. Nhưng đặc biệt hơn, nước còn là biểu tượng của sự sống. Trong phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống không thể chết được của Thiên Chúa.
Gioan xuất hiện, dân chúng kéo đến nghe ông giảng và chịu phép rửa. Trong cả xứ nổi lên một cuộc phục hưng chưa từng có, một phong trào quay về với Thiên Chúa. Khi thấy điều đó, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm. Không phải Ngài cảm biết tội lỗi và ăn năn, Ngài biết rằng hiện giờ Ngài phải đồng hoá mình với phong trào quay về với Thiên Chúa này. Đổi với Chúa Giêsu, sự xuất hiện của Gioan là một tiếng kêu gọi của Thiên Chúa và hành động, và hành động thứ nhất của Ngài là đồng hoá mình với dân chúng trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng trong lễ rửa của Chúa Giêsu có một sự kiện xảy ra.
Trước khi Ngài có thể quyết định về bước quan trọng này, Ngài phải biết chắc mình làm việc phải lẽ; và trong lúc Ngài chịu phép rửa, Thiên Chúa đã phán với Ngài. Xin đừng lầm sự việc xảy ra tại lễ rửa là một kinh nghiệm riêng tư cho Chúa Giêsu. Tiếng nói của Thiên Chúa đã đến với Ngài và tiếng đó xác định rằng Ngài đã có một quyết định đúng. Nhưng hơn thế nữa, chính tiếng đó chỉ cho Ngài thấy tất cả con đường của Ngài. Thiên Chúa đã phán với Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta.” Câu này gồm hai phần “Con là Con yêu quý của Cha” là câu trích từ Thánh vịnh 2,17 được coi là lời diễn tả về Đấng Cứu Thế hứa ban. Còn câu “Ta hài lòng về con” là một phần của Isaia 42,1, diễn tả người Đầy tớ Đau khổ của Chúa Gia-vê có hình ảnh trọn vẹn trong Isaia 53.
Cho nên trong lễ rửa của Chúa Giêsu có rất nhiều ý nghĩa: có ý nghĩa về Nước Trời đã đến vì lúc đó là lúc Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Nước Trời. Cũng có nghĩa là lúc Đức Giêsu được xức dầu tấn phong bằng Thánh Thần để thi hành một sứ mạng trọng đại. Cũng có nghĩa là Ngài đồng hoá với loài người tội lỗi, dầu “vốn không biết tội lỗi nhưng trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta” và hạ mình nhận lấy phép rửa của Gioan.
Tiếng từ trời “Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con “là tiếng nói của ân phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Như thánh Luca kể lại cho chúng ta. Ngài kéo dài nghi thức bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này mang lại hiệu quả là trời mở ra. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trời mở ra như sau này trời cũng mở ra mỗi khi bí tích Thánh Tẩy được cử hành, vì bí tích Thánh Tẩy không những chứng tỏ việc được tẩy sạch tội lỗi mà còn cho thấy ơn phúc dư đầy trời tuôn đổ xuống cho. Hơn thế nữa, qua việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đến với Chúa Giêsu. Chính Thánh Linh này cũng hướng dẫn Chúa Giêsu trong tất cả các hoạt động của Ngài, trong tất cả các công việc giáo huấn và chữa lành bệnh tật… tượng trưng cho ơn cứu độ từ nay được ban cho nhân loại hầu giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Việc đến của Chúa Thánh Thần tiên báo ơn Chúa Thánh Thần sẽ được ban xuống cho mỗi thụ nhân để nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc lại cho con người nhớ rằng, con người khao khát cần đến Thiên Chúa, khao khát được cứu rỗi và Thiên Chúa đáp lại khao khát này trong Chúa Giêsu Kitô Con Ngài, nơi một con người không phải là con người tầm thường đã đến nhận phép rửa của Gioan nơi sông Giócđan, mà nơi một con người vừa là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Yếu tố thứ hai của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng mang một ý nghĩa sâu xa. Khởi đầu sách Sáng Thế khi bắt đầu công cuộc tạo dựng, Thánh Thần Chúa đã bay lượn là là trên mặt nước, và trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu. Dĩ nhiên, bay lượn xuống trên Chúa Giêsu, chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà Chúa Giêsu thực hiện và phép rửa là điểm khởi đầu của công cuộc tái tạo nên mới trong Chúa Thánh Thần.
Phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.
Thứ Hai trong tuần 1 Quanh Năm
1 Sm 1:1-8; Tv 116:12-13,14-17,18-19; Mc 1:14-20
Sám hối
Dường như tất cả mọi người đều nhìn nhận rằng sám hối, sửa mình, cải thiện cuộc sống là việc cần thiết, không cần bàn cãi, nhưng dường như ai cũng chần chừ không quyết làm ngay.
Nhiều người nói: “Tất nhiên tôi sẽ sám hối, nhưng từ từ đã, vội gì, có thể là ngày mai”… và cái ngày mai đó dường như không bao giờ đến. Thế rồi người ta cứ lần lữa mãi cho đến lúc xuống mồ mà vẫn chứng nào tật ấy.
Muốn tẩy sạch tâm hồn, chúng ta chỉ có hai lựa chọn: hoặc là ngay bây giờ hay là không bao giờ. Nếu ta không bắt đầu ngay hôm nay, thì chẳng hy vọng ở ngày mai.
Vậy ta hãy noi gương dân thành Ni-ni-vê được trích đọc trong phụng vụ hôm nay, mau mắn đáp lời mời gọi sám hối từ tiên tri Giô-na.
Khi “Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ." Nghe lời ấy, dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ (tức thời) ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ… Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Giôna 3, 4-5).
Phạm tội là khi làm phiền lòng Chúa, là khi cố tình bỏ không làm những điều luật Chúa buộc làm như giữ ngày Chúa nhật, thảo kính cha mẹ… hoặc cố ý làm những điều luật Chúa cấm làm như chớ giết người, chớ tà dâm, chớ dối trá... Những điều luật Chúa buộc hay cấm làm được gọi là thánh ý Chúa và được tóm lại trong 5 kinh quen thuộc này: Một là kinh “Mười Điều Răn Đức Chúa Trời”; Hai là kinh “Sáu Điều Răn Hội Thánh”; Ba là kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”; Bốn là kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức; Năm là kinh “Hòa Bình”.
Phạm tội là cố tình làm trái thánh ý Thiên Chúa, làm cho Chúa Giê-su phải buồn phiền vì ta. Muốn được ơn tha tội và được giao hòa với Chúa, chúng ta cần khiêm hạ sám hối. Sự ăn năn thực sự được biểu lộ qua thái độ hồi tâm xét mình, lo buồn trách mình vì đã phạm tội mất lòng Chúa, khiêm nhường xưng thú tội lỗi với vị linh mục có quyền giải tội và quyết tâm chừa cải bằng việc xa lánh dịp tội, quyết tâm đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây ra cho tha nhân.
Sám hối là khởi đầu của việc nên hoàn thiện: Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả các vị đều ý thức về thân phận yếu hèn của mình. Càng ý thức về sự bất toàn của mình, người ta càng cảm nhận được tình thương bao la của Thiên Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đa-vít sau khi đã phạm tội giết chồng đoạt vợ (x. 2 Sm 11,1-17), của thánh Phê-rô sau khi chối Thầy ba lần (Mt 26,69-75), của thánh Phao-lô sau khi bắt bớ các tín hữu và bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (Cv 9,1-19), của Au-gút-ti-nô sau chuỗi ngày buông thả tội lỗi và của nhiều đại thánh khác trong lịch sử Hội Thánh...
Lời đầu tiên Chúa Giêsu công bố khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời hôm nay là: "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết việc sám hối với rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Đức Giê-su? Sám hối không chỉ là hồi tưởng về quá khứ của mình, không dừng lại ở thái độ buồn phiền, sợ hãi thất vọng, nhưng là một chặng đường phải trải qua để đạt đến niềm vui là tin vào Tin Mừng.
Sám hối gồm hai khía cạnh. Khía cạnh tiêu cực là nhìn về dĩ vãng, về quá khứ của cuộc đời mình để xem mình đang sống đúng hay sai, còn thiếu những gì cần bổ khuyết. Sám hối còn mang khía cạnh tích cực là hướng đến tương lai, quyết tâm thay đổi cuộc đời để sống tốt đẹp hơn. Muốn được như vậy thì người sám hối phải biết trở nên khiêm tốn, trở nên bé nhỏ và đặt tất cả niềm tin vào Người Cha nhân ái là Thiên Chúa tình yêu.
Ngoài ra, sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là cửa ngõ tất yếu dẫn đến Tin mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc...
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Ðó là cảm nhận của vua Ðavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Ðạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Ðành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Kêu gọi mọi người sám hối ăn năn là lời giảng đầu tiên và quan trọng nhất trong sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu. Ngài mòi gọi mọi người phải sám hối mới xứng đáng được đón nhận vào triều đại của Nước Thiên Chúa. Sám hối là canh tân đời sống để trở nên người tín hữu nhận biết mình tội lỗi, yếu đuối và quyết tâm thay đổi lối sống của mình; và hơn nữa là ‘sống’ cách phù họp hơn với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Thứ Ba trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 1:9-20; 1 Sm 2:1,4-5,6-7,8; Mc 1:21-28
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
Theo Tin Mừng Mác cô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ” (Mc 1,39). Sau khi kêu gọi những môn đệ đầu tiên, hôm nay Người dẫn các ông đến hội đường Caphácnaum vào ngày sa bát. Bản văn Tin Mừng hôm nay được xem như bài tóm tắt hoạt động của Chúa Giêsu: giảng dạy và trừ quỷ. Cả hai đều tỏ cho thấy uy quyền có sức cứu độ của Ngài.
Chúa Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được M-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào ngày Sa-bát trong một hội đường ở thành Caphácnaum thuộc miền Galilê. Lời giảng dạy và quyền uy của Chúa Giêsu khiến mọi người thán phục như Tin mừng Mác-cô ghi nhận như sau:
"Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư " (c 22).
Mọi người trong hội đường đều kinh ngạc khi chứng kiến ma quỷ chịu khuất phục xuất ra khỏi người chúng ám sau lời truyền của Chúa Giêsu. Họ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (c 27).
Chúa Giêsu giải thích Lời Chúa trong hội đường Do thái khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì : "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc 1,22).
Vì Người được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của bất cứ ai, kể cả Mô-sê. Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Tin Mừng Mác-cô đã thuật lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um gần biển hồ. Ngay ngày Sabát, Người vào hội đường mà giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Người như một Đấng có quyền , chứ không như các kinh sư của họ. Vì các kinh sư chỉ đọc và giải thích kinh thánh như đã học mà không thêm điều gì mới, khác với Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng lập Luật mới như Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sabát, và khi bị hạch hỏi Người đã cho thấy quan điểm của Người như sau: "Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabát" (Mc 2,27).
Chúa Giêsu không những có uy quyền trong lời giảng, trong việc xua trừ ma quỷ, mà Người còn có quyền trên thiên nhiên như: biến nước lã thành rượu nho, nhân bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, dẹp yên sóng gió, mẻ cá lạ lùng...
Người cũng đã dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: cho người mù được sáng mắt, kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
Người đã phục sinh kẻ chết như cầm tay phục sinh một bé gái mới chết, cho chàng thanh niên đang đem đi chôn ở cử thành Naim, cho Ladarô chết 4 ngày sống lại ra khỏi mồ và chính Người đã từ trong cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã tiên báo.
Ngày nay chúng ta chỉ đi theo một vị Thầy là Chúa Giêsu noi gương Tông đồ Phêrô: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống thì nhiều môn đệ đã tỏ ra chán nản không còn muốn theo làm môn đệ Chúa Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai còn ở lại. Dù vậy Chúa Giêsu vẫn không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông xác định lập trường đi hay ở. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai trả lời rằng : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Ngày nay muốn trung thành với Chúa Giê-su, chúng ta cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng Chúa trong thiên nhiên và các dấu chỉ của thời đại. Nhờ năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần tại nhà thờ, hay trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành "muối men" hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm dậy lên men tình yêu. “Ánh sáng" của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca tụng Thiên Chúa trên trời.
Cạnh đó chúng ta cần ý thức sứ vụ của mình là cộng tác với Chúa xua trừ ma quỷ, và các tệ đoan xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giêsu và Hội thánh. Chúng ta cần dấn thân làm những việc công ích và cộng tác với những người thiện chí xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh. Cần quan tâm an ủi những ai đang gặp gian nan khốn khó bằng cách giúp họ tin tưởng cậy trông vào lòng Chúa thương xót, xin Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu và chính chúng ta cũng tích cực giúp đỡ họ với hết khả năng của mình.
Thứ Tư trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 3:1-10,19-20; Tv 40:2-5,7-8,8-9,10; Mc 1:29-39
Ðộng lực của việc tông đồ
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Tại nhà của ông Simôn, Chúa Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của Tim Mừng theo Thánh Maccô, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của mộtgia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người
Hành vi đó của Chúa Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Gương Chúa Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào.
Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Chúa Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa. HM
Thứ Năm tuần 1 Quanh Năm
1 Sm 4:1-11; Tv 44:10-11,14-15,25-26; Mc 1:40-45
Chữa người phong cùi
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót. Nhưng Ngài không chỉ làm vơi đi hoặc xóa đi bất hạnh của người bệnh bằng cách chữa lành cho anh, nhưng còn cất đi nỗi bất hạnh lớn lao của cả nhân loại là tội lỗi và cái chết, bằng cái chết trên Thập giá và sự phục sinh của Ngài.
Phong hủi đối với những người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế, bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là ô uế. Vì thế, người phong hủi thường phải ở những nơi cách biệt: đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi! Bài Tin mừng hôm nay cho biết, người phong hủi dám đến xin Đức Giêsu chữa lành. Điều đó chứng tỏ bệnh nhân có một niềm xác tín vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất thương yêu. Đến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Thấy anh có lòng tin, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn anh khỏi bệnh”. Chạm đến người phung là phạm luật, khiến người ta khó chịu. Ngài muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Chúa, con người được tiếp xúc thần tính của Ngài, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Ngài. Chính vì thế mà bệnh phung biến mất và anh ta được sạch.
Chúa Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Chúa Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Chúa Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Chúa Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Chúa Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng.
Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn.
Với bài tường thuật Chúa Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc chương 1, Thánh Maccô đưa hành vi quyền lực của Chúa Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Chúa Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Chúa Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Chúa Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ
Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
Thứ Sáu tuần 1 Quanh Năm
1 Sm 8:4-7,10-22; Tv 89:16-17,18-19; Mc 2:1-12
NHẬN RA TÌNH YÊU CHÚA
Trong đời sống con người, điều khó thực hiện nhất là tha thứ, nhất là khi đối tượng xúc phạm là người thân cận, gần gũi của ta. Nhưng đối với Thiên Chúa, không gì mà không thể thực hiện. Lòng tha thứ của Thiên Chúa vô bờ bến, đến độ Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô phải tha đến 70 lần 7. Một sự tha thứ mãi mãi, không ngừng. Có lẽ Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối mỏng giòn của con người, nên Ngài dễ đồng cảm và đã thể hiện lòng đồng cảm ấy qua việc tha thứ không biết mệt mỏi của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại một hành vi chữa bệnh lạ lùng của Chúa Giêsu. Người phục hồi không những phần xác mà cả phần hồn của con người, mặc dù con người chẳng hề mở miệng kêu xin. Chúng ta hãy cùng Thánh Máccô bước vào một ngày của Chúa Giêsu tại thành Caphacnaum.
Trong câu mở đầu của chương hai, tác giả giới thiệu nơi chốn rõ ràng: ở thành Caphacnaum và trong nhà của Người (1). Caphacnaum là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Căn nhà mà Người đang ở có thể là nhà Simon, Anrê. Nghĩa là trong chính căn nhà Giáo Hội, Thiên Chúa thực thi lòng thương xót và tha thứ.
Bao quanh Người là làn sóng dân chúng. Họ tụ tập đông đến nỗi chỗ nào cũng chật cứng người (2), để nghe lời Người giảng dạy. Có một kẻ bại liệt muốn được chữa lành phải nhờ đến sự trợ giúp của người khác. Anh ta nằm trên chõng và được đưa tới gần Chúa Giêsu bằng một lối đi hết sức ngoạn mục và đầy sáng kiến.
Vì dân chúng quá đông, len lỏi vào còn khó huống hồ khiêng một cái chõng nặng. Nhưng khó khăn ấy không làm chùn bước khao khát của họ. Tình yêu đầy sáng kiến. Họ liền dỡ mái nhà và thòng dây đưa cái chõng cùng kẻ bại liệt xuống ngay trước mặt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy rõ lòng tin và sự khao khát kiếm tìm Thiên Chúa của họ. Họ mong được Chúa giải thoát cho kẻ bại này khỏi sự trói buộc của bệnh tật. Chúa Giêsu – hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa – đã không những chữa lành căn bệnh bại liệt thể xác nơi bệnh nhân, mà còn chữa lành tâm linh cho anh nữa “Con đã được tha tội rồi” (5).
Có lẽ độc giả khá ngạc nhiên trước sự “lẩm cẩm” của Chúa Giêsu. Người ta đến xin chữa bệnh chứ đâu xin ơn sám hối. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu tỏ hiện quyền năng của một Đấng Mêsia, một Vị Thiên Chúa với uy quyền tối cao. Các ông kinh sư rất nhạy bén về giáo lý này. Các ông nghĩ ngay rằng: “ Sao ông này dám nói phạm thượng, xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì không ai có quyền tha tội, duy một mình Thiên Chúa?” (7).
Chúa Giêsu thấu hiểu lòng họ đang nghĩ gì, Người bảo họ: “Trong 2 điều, “con đã được tha tội rồi” và “đứng dậy, vác chõng mà về”, điều nào dễ hơn?”. Ở đây, Chúa đưa các kinh sư vào hai thái cực: một hành vi chữa lành tâm linh và một hành vi chữa trị thể xác của Người. Bất cứ ở thái cực nào, Người cũng có đủ quyền năng để thực hiện. Điều này chứng tỏ Người có uy quyền trên mạng sống và cả linh hồn con người nữa. Chúa Giêsu khẳng định: Vậy để các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội. Đến đây, Người mạc khải cho các kinh sư biết chính Người là Đấng Mêsia, Đấng phải đến để cứu dân thoát xiềng xích của ma quỷ và tội lỗi. Đấng đến để đưa con người vào hưởng hạnh phúc Thiên Chúa.
Như vậy, thánh sử muốn chúng ta biết lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người toàn vẹn nơi anh bại liệt, mặc dù anh đến chữa bệnh không một lời hay cử chỉ van xin, mà chỉ do sự nhiệt tình của những người khiêng. Nhưng điều kỳ diệu hơn nữa của ơn tha thứ là: trước khi tha thứ cho anh, Chúa Giêsu đã khai mở ơn cứu độ cho các kinh sư, khi các ông nhận ra: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng rất tiếc là sự hiểu biết ấy chỉ trên lý thuyết, các ông vẫn không mở lòng mở trí đón nhận ơn cứu độ, mặc dù họ biết: Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ của Đấng Mêsia. Người chính là Đấng Cứu Thế mà dân Do Thái đang mong chờ.
Ngược với thái độ cứng lòng, cố chấp của các kinh sư là tâm tình tôn vinh quyền năng và tình yêu Thiên Chúa mà dân chúng cảm nhận được “ chúng ta chưa thấy vậy bao giờ” (12). Họ trầm trồ thán phục, ngạc nhiên ngỡ ngàng trước tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện qua con người Giêsu Nagiarét.
Tin Mừng hôm nay ghi lại Chúa Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại: "Con đã được tha tội rồi". Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng". Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha tội", hai là bảo: "Ðứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ hơn".
Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Nhìn thái độ của các kinh sư và gẫm lại đời sống của mỗi người chúng ta: chúng ta có nhận ra tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong cuộc đời ta, trong lịch sử nhân loại, trong các biến cố xảy ra trên thế giới hàng ngày không? Hay cũng như họ, khi chúng ta được ơn khôn ngoan nhận xét diện mạo thay đổi của trời đất, mà vẫn “bưng tai, bịt mắt” mà không sám hối trở về ?
Thứ Bảy tuần 1 Quanh Năm
1 Sm 9:1-4,17-19; Tv 21:2-3,4-5,6-7; Mc 2:13-17
THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Sự toàn năng nơi Ngài có sức biến đổi và cứu độ. Và sự toàn năng nơi Ngài xuất phát từ lời nói đến việc làm. Quả thế, “ngôn hành” của Ngài luôn có ý hướng và mục đích. Ý hướng của Ngài gợi hứng từ sự yêu thương vô điều kiện. Mục đích Ngài nhắm đến chính là chia sẻ ơn cứu độ cũng như mong mỏi hết thảy mọi người đều được tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Đọc lại hành trình lịch sử cứu độ dân Chúa, chúng ta nhận ra rằng từ trong Cựu Ước cho đến Tân Ước, Thiên Chúa vẫn dùng “ngôn hành” của mình để dẫn dắt, dạy dỗ và biến đổi từng cá nhân trong dân tộc của Ngài. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã kêu gọi, đồng hành và hướng dẫn Mô-sê thành một người chỉ huy tài ba, thành cầu nối giữa dân và Chúa. Mặc dầu Mô-sê không phải là người tài ăn, khéo nói, thậm chí nhút nhát. Nhưng Chúa muốn và Mô-sê vâng phục, Mô-sê trở thành thủ lãnh trong dân, thành người kéo ơn Chúa xuống cho dân và thông truyền mong mỏi của dân đến với Chúa. Đó là sự toàn năng và tuyệt hảo nơi Chúa thực hiện qua Mô-sê cũng như dân của Ngài.
Còn trong Tân ước, có rất nhiều những con người, những nhân vật đã được Thiên Chúa gọi mời và biến đổi thành người cộng tác đắc lực với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin mừng. Cụ thể, trong bài Tin mừng ngày hôm nay, tác giả Mác-cô trình bày cho chúng ta, một Mát-thêu, kẻ làm nghề thu thuế, bị coi là người tội lỗi, bị dân chúng khinh bỉ, là người cộng tác với ngoại bang để hành hạ đồng bào. Thế nhưng, chính “ngôn hành” của Chúa đã biến đổi và giúp ông trở thành Tông đồ cho Ngài.
Một trong những điểm đáng lưu ý trong trong bài Tin mừng thứ Bảy tuần I Thường Niên hôm nay đó là hành động dứt khoát của ông Lêvi khi được Chúa kêu gọi làm môn đệ. Khi Chúa đi ngang bàn thu thuế của ông và mời gọi: “Anh hãy theo tôi,” thì chẳng chần chừ hay đắn đo suy nghĩ, ông Lêvi lập tức đứng dậy đi theo Ngài.
Thái độ dứt khoát ấy cho thấy rằng trước đó ông đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc sống của một người thu thuế như ông, một cuộc đời bị liệt vào hàng tội lỗi công khai.
Khi can đảm đứng dậy theo Chúa như vậy, ông như từ một kẻ bị coi là đã chết trong tội, nay được chỗi dậy và hồi sinh trong đời sống mới. Động từ anastas – đứng dậy – phát xuất từ động từ anistemi, vừa diễn tả một hành động thể lý của một người từ trạng thái ngồi bất động sang trạng thái hoạt động, nhưng đồng thời cũng vừa ám chỉ đến sự phục sinh như Chúa (x. Mc 8, 31; 9, 31; 10, 34; 12, 23. 25; Cv 2, 24. 32; 13, 32, 34).
Quả vậy, Thiên Chúa không chấp nhất quá khứ, Ngài kêu gọi Mát-thêu từ bỏ quá khứ tội lỗi và hướng tới tương lai. Không phụ lòng tin tưởng nơi Chúa, Mát-thêu đã rũ bỏ tất cả, tiền tài, địa vị, quyền bính và thậm chí cả những dị nghị, nghi nan. Chính sự đáp trả, niềm tin và sự phó thác vào Thiên Chúa đã biến đổi ông. Nói cách khác, chính tình yêu Chúa đã thay đổi và nâng ông dậy. Từ một con người chỉ biết tích cóp, ăn chặn và bóc lột đồng bào.
Giờ đây Mát-thêu trở thành kẻ “lưới người”, kéo những “mẻ cá người” về cho Chúa, cho Hội thánh bằng sự nhiệt thành và hăng say. Bên cạnh đó, Mát-thêu còn trở thành tác giả Tin mừng viết về dòng dõi và sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ông dùng chính đôi tay thu thuế trước đây của mình, giờ đây cũng với đôi bàn tay ấy, ông chia sẻ cho đồng bào và hậu thế về sứ mạng của Đấng Tình Yêu. Sở dĩ Mát-thêu có đặc ân ấy là vì sự toàn năng và yêu thương của Chúa dành riêng cho ông. Ngài muốn, Ngài yêu và Ngài tin tưởng vào sự thay đổi nơi ông và biến ông thành người cộng tác đắc lực trong sứ mạng rao giảng Tin mừng.
Thiên Chúa toàn năng và rất mực yêu thương nhân loại như vậy. Thế nhưng, hôm nay chứng kiến việc Chúa Giêsu kêu gọi Mátthêu và Ngài còn về nhà ông để mừng tiệc, để được ông thiết đãi, những người kinh sư thuộc nhóm Biệt phái tỏ vẻ không hài lòng, nghi kị và muốn kết án. Suy nghĩ và cái nhìn của những người Biệt phái ngày xưa, dường như cũng đang là não trạng và cách hành xử của con người thời nay. Trong một xã hội vô cảm, đặt nặng những giá trị bên ngoài nhưng thiếu ý thức nhân bản và chiều sâu đời sống nội tâm. Dường như con người hiểu nhau qua vật chất, qua vẻ hào nhoáng của địa vị mà bỏ quên giá trị và ý nghĩa nhân bản hay đời sống đức tin.
Khác hẳn với cách cư xử và hành động của con người. Thiên Chúa hứa là Ngài giữ lời. Ngài chậm giận và giàu tình thương. Thiên Chúa không giữ quá khứ của chúng ta nhưng Ngài kêu gọi chúng ta hướng tới tương lai, từ bỏ tội lỗi và tín thác nơi Ngài. Như một bác sĩ rành nghề, hôm nay Chúa Giê-su biết rõ bệnh tình của Mát-thêu, Ngài đã trị dứt cơn bệnh của ông, đồng thời Ngài sử dụng tài năng linh hoạt có sẵn nơi ông để dùng ông trong sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Kitô được sai đến trần gian là để kêu gọi người tội lỗi. Ngài là Đấng Thánh, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Ngài đến để kêu gọi. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Hội Thánh và mỗi người chúng ta, cũng được Ngài sai đến để kêu gọi: sống và làm chứng cho muôn dân về Ơn Cứu Độ. Trước tiên là sống Ơn Cứu Độ cho chính mình, nghĩa là phải ý thức mình là người tội lỗi và cần được cứu độ; sau là làm chứng về chương trình này của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Chắc chắn rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong cuộc sống, rất nhiều lần ta đã chọn thế gian, ma quỷ và xác thịt. Nhìn nhận mình là người tội lỗi, đó là điều kiện tiên quyết. Trong phần sám hối Thánh lễ, chúng ta đấm ngực thú nhận mình là người tội lỗi. Bạn có ý thức điều đó không? Chỉ có người tội lỗi đích thực, mới cầu xin ơn tha thứ; và khi được thứ tha, tâm hồn mới bình an và cuộc sống mới đổi thay. Ngược lại, hình thức máy móc đó sẽ dẫn đến tình trạng “vẫn như cũ”.
Chúa Nhật Mùa Giáng Sinh
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Is 42, 1-4. 6-7; Cv 10, 34-38; Lc 3, 15-16. 21-22
DÌM MÌNH VỚI ĐỨC KITÔ
Chúa Nhật Mùa Giáng Sinh 13-1-2019
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Is 42, 1-4. 6-7; Cv 10, 34-38; Lc 3, 15-16. 21-22
DÌM MÌNH VỚI ĐỨC KITÔ
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Giođan. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Giođan, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giođan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Trước khi dìm mình trong nước để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã trà trộn giữa đám đông dân chúng giống y như mọi người khác, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người. Đây là nét đặc thù diễn tả sâu đậm các hệ lụy của biến cố nhập thể, Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, giữa mọi người.
Chúa Giêsu là Đấng thánh thiện tuyệt vời, nơi Ngài không hề vương vấn bất cứ vết nhơ nào của tội lỗi, vậy mà Ngài đã làm một chuyện thật lạ lùng và khó hiểu, đó là xin Gioan làm phép rửa cho mình tại sông Giođan.
Phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận trong tình liên đới trọn vẹn với loài người chúng ta là hình ảnh bí tích Rửa Tội trao ban cho chúng ta cuộc sống mới, cuộc sống làm con cái Thiên Chúa. Isaia chương 40 loan báo Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi cảnh sống lưu đày bên Babylon, sau khi thành Giêrusalem bị vua Babylon đánh chiếm và tàn phá thành bình địa năm 587 trước Tây lịch. Dân Israel bị đày sang Babylon, 50 năm sau đó, vua Cyrus cho họ trở về quê cha đất tổ tái lập quốc gia, xây lại thành thánh và đền thờ. Tin vui của cuộc xuất hành thứ hai trong lịch sử Israel ấy được tiên tri Isaia loan báo qua một vài hình ảnh biểu tượng và kiểu cách đặc thù của ông. Sự kiện Thiên Chúa để ý xót thương dân Ngài được diễn tả qua kiểu nói: Hãy nói với con tim của Thành Giêrusalem".
Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh "nói với con tim" là kiểu nói diễn tả tình yêu thương và mối liên hệ hôn nhân. Thiên Chúa đối xử với dân Israel dân Ngài như một vị hôn phu âu yếm, to nhỏ với hôn thê của mình. Nếu trong cuộc xuất hành đầu tiên Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng than khóc của dân Ngài, thì giờ đây, trong cuộc giải phóng thứ hai này, Ngài nghiêng mình xuống trên dân Israel với tất cả lòng dịu hiền, thương mến. "Nói với con tim của Giêrusalem", như thế có nghĩa là Thiên Chúa Tạo Hóa, giờ đây lại mở rộng bàn tay nhân từ ôm ấp lấy Israel với tất cả lòng thương mến.
Sông Giođan, tiếng Do Thái là "yarad" có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Giođan để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì trời mở ra: giữa con người với Thiên Chúa, một tình thân mới có thể thành hình. Giữa Đức Kitô với Thiên Chúa, không có hàng rào ngăn cách. Điều mới lạ là Chúa Giêsu, tuy vẫn còn dính liền với thế gian, hòa lẫn trong đám tội nhân khi đến chịu phép rửa, lữ khách như họ trên đường về trời đang mở ra, chính Đức Kitô đó có thể trò truyện với Thiên Chúa, Cha Ngài mà không gì cản trở mối hiệp thông. Hàng rào mà tội lỗi dựng nên giữa Thiên Chúa và chúng ta bây giờ đã được vĩnh viễn xóa bỏ, vì có một người luôn luôn ở trước mặt Thiên Chúa. Các tầng trời xưa kia đóng lại vì tội lỗi, bây giờ lại mở ra để tuôn trào Thánh Thần xuống trên một con người biết đón nhận Thánh Thần không hạn chế. Và từ nay, qua con người Giêsu đó, mọi người đều có thể đến cùng Chúa Cha.
Nơi phép rửa chuẩn bị của Gioan, Chúa Giêsu đã vén mở cho dân chúng nhìn thấy trước phép rửa trong Thánh Thần mà Ngài sẽ thiết lập và truyền cho các môn đệ thi hành. Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa bằng nước nơi sông Giócđan của Gioan tẩy giả, Ngài bước lên và tràn đầy Chúa Thánh Thần, nhưng Chúa Thánh Thần và Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải trong biến cố khởi đầu này.
Đức Kitô là Đấng thánh thiện, nhưng đã tự ý chấp nhận thân phận tội lỗi của con người với tất cả những hệ luỵ của nó. Bởi đó chấp nhận dìm mình dưới dòng nước Giođan, chính là chấp nhận cái chết. Vì thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Đức Kitô lại nói về cái chết của Ngài như một phép rửa. Và hành động chịu phép rửa hôm nay có tính cách quyết định cho cả sứ vụ của Ngài. Đây là một lời tiên tri loan báo ý định dấn thân tới cùng sẽ dẫn đưa Ngài tới cái chết thập giá, thế nhưng cũng chính nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Tiếng từ trời "Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con "là tiếng nói của ân phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu trong hình dạng chim bồ câu. Hình ảnh này thật có ý nghĩa khi chúng ta nhớ lại trong Cựu Ước, trong đại nạn Hồng Thuỷ, chim câu được thả ra đã trở về mỏ ngậm lá ô-liu xanh tươi báo hiệu nạn lút đã chấm dứt (St 8,11). Đến trong hình dạng chim bồ câu là đến mang lại bảo đảm sự hoà giải giữa Thiên Chúa và loài người. Đến như vậy là dấu chỉ lòng nhân từ của ơn cứu độ Thiên Chúa ban.
Phép rửa của Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.
Ta đã chịu phép rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi hiệp thông thân mật với Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một tình yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tinh yêu cứu thế!
huệ minh
Thứ Hai Tuần I Mùa Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Dt 1, 1-6; Mc 1, 14-20
LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI
Tất cả chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa; không ai xứng đáng được ơn cứu độ… Chính vì thế cần phải ăn năn sám hối quay trở về với Thiên Chúa để được thứ tha và trở thành công dân Nước Trời. Thân phận con người yếu đuối, tội lỗi, nên việc sám hối, sửa mình là điều cần thiết mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện từng ngày từng giờ trong cuộc sống, luôn luôn phải bắt đầu lại ngay hôm nay để có một ngày mai tốt đẹp. Và như vậy, bắt đầu công việc rao giảng, sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu gởi đến cho mọi người là: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15).
Lòng hối cải của con người ta thường bắt đầu với sự đánh động từ thẳm sâu của Thiên Chúa, nói một cách khác chính ân thánh của Thiên Chúa biến cải tâm hồn và làm cho con người tìm về đàng ngay nẻo chính. Tiếp đến là một đoạn tuyệt, cắt đứt với đời sống dĩ vãng, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người được tái tạo trong ân thánh. Dân thành Ninivê đã nhận lấy lời cảnh cáo của sứ giả Thiên Chúa, đã ăn năn sám hối và chắc hẳn đã cải bỏ nếp sống lăng loàn cũ để bắt đầu cuộc sống mới trong đức tin vào Thiên Chúa.
Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình “ăn năn sám hối" (Mc 1, 15). Sám hối là đi từ đời sống tội lỗi sang đời sống con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ chán nản đến vui mừng, từ bóng tối ra ánh sáng. “Sám hối vì nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1, 15) vẫn luôn có tính chất thời sự của Tin Mừng. Quyết tâm sám hối trở về cùng Chúa là con đường dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa thiết định.
Sám hối là điều kiện căn bản để trở thành môn đệ của Chúa. Khi sám hối, chúng ta khiêm tốn nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình, đồng thời hứa với Chúa sẽ thay đổi cuộc sống để trở nên tốt hơn. Ý thức thân phận tội lỗi và những khuyết điểm yếu kém nơi bản thân, chúng ta sẽ có cái nhìn quảng đại và bao dung hơn đối với người khác.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.
Để sám hối cần phải nhận ra tội lỗi của mình : Tội là sự xấu xa làm cho ta mất liên lạc với Chúa và tha nhân. Tội có thể trong tử tưởng, lời nói hoặc việc làm. Để sám hối, hối nhân phải ý thức và chấp nhận mình có tội như nội dung Kinh Thú Nhận :“lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Nhưng trong thực tế, để nhận ra tội lỗi của mình không phải là chuyện dễ dàng. Con người thường có khuynh hướng đổ lỗi cho kẻ khác. Ngày xưa, ông Adong đã đổ tội cho bà Evà. Bà Evà lại đổ tội cho con rắn. Ngày hôm nay, cha mẹ – con cái, vợ – chồng, cấp trên – cấp dưới, ngày này – người khác…thường đổ lỗi cho nhau. Ít khi người ta can đảm để nhận trách nhiệm về mình. Vì cái tôi của người ta lớn quá. Vì người ta mất ý thức về tội. Vì vậy, người ta khó thực hành việc sám hối ăn năn.
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, con người được mời gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Nước Thiên Chúa dành cho những ai có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Thế gian đầy dẫy những dối trá và bất công. Con Thiên Chúa xuống trần mang bình an và hy vọng cho con người và tẩy trừ mọi tội lỗi.
Khi bước đi theo Thầy Giêsu, ta được mời gọi từ bỏ lối sống cũ để sống và làm chứng cho một Tình yêu hiến tế. Các môn đệ đầu tiên đã được chọn gọi không phải vì các ông tài ba xuất chúng hứa hẹn làm nên sự nghiệp nhưng chỉ vì tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Các ông chỉ là những ngư phủ suốt ngày lưới cá kiếm sống nhưng khi được Thầy gọi, các ông đã lập tức bỏ chài lưới lại, bỏ cha mình lại trên thuyền để theo Thầy Giêsu. Ta tự hỏi, các ông sẽ được gì khi dám bỏ mọi sự để theo Thầy. Các ông đã biết gì về Thầy và con đường Thầy đi để dám bước theo? Chỉ một lời hứa của Thầy thôi hay vì chính hấp lực nơi Thầy Giêsu đã cuốn các ông đi vào con đường mà chính các ông cũng không biết rõ. Ơn gọi quả là một mầu nhiệm.
Hành trình sám hối không phải chỉ là một giai đoạn nhất thời, nhưng nó luôn gắn kết chặt chẽ trong cuộc sống những người học trò của Đức Giêsu. Sám hối và sống tinh thần từ bỏ là điều chúng ta phải thực hành cho đến chết, bởi vì cái tôi ích kỷ luôn mãi đeo bám, khiến chúng ta phải quyết tâm và cũng phải canh tân quyết tâm đó mỗi ngày. Thánh Tôma Aquinô còn nói một cách hơi cường điệu rằng, khi chúng ta chết đi, 15 phút sau, cái tôi ích kỷ đó mới chết hẳn.
Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng là sứ điệp Chúa gửi đến mỗi gia đình. Các bậc cha mẹ cần phải nhìn lại đời sống mình mỗi ngày, từ đời sống đạo đức đến công việc và cách làm ăn, từ tương quan vợ chồng đến các con. Những gì đang làm cản trở gia đình chúng ta trở thành cộng đoàn Nước Trời, ta cần mạnh dạn thay đổi. Chúng ta hãy mạnh dạn thay đổi cách sống, cách suy nghĩ và cách cư xử để gia đình thực sợ trở thành một tổ ấm, thành Nước Trời. Hãy thay đổi cách làm ăn gian dối để thay vào đó bằng sự thật thà ngay thẳng; thay sự nóng nảy tự ái bằng hiền hòa và quan tâm đến nhau; thay bạo lực bằng tình yêu và sự tha thứ, vì đang có những gia đình rơi vào cảnh căng thẳng rạn nứt chỉ vì những vấn đề rất nhỏ, nhưng không bên nào chịu nhận phần sai lỗi về mình.
Thiên Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm ấp cả vũ trụ này, trong đó có cả người tốt và người chưa tốt, người công chính và các tội nhân. Ngài luôn mời gọi con người hãy canh tân hối cải. “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”, đó là lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu, khi Người khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng. Tin vào Phúc âm là tin vào Chúa Giêsu, để rồi nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha.
Ước gì chúng ta biết lắng nghe lời rao giảng của Chúa để sám hối từng ngày và canh tân đổi mới cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng ta sống xứng đáng trở nên môn đệ của Chúa Kitô.
Huệ Minh
Thứ Ba Tuần I Mùa Thường Niên
Dt 2, 5-12; Mc 1, 21-28
ĐỪNG DÙNG QUYỀN LỰC MÀ THỐNG TRỊ
Tin Mừng Mác cô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ” (Mc 1,39). Sau khi kêu gọi những môn đệ đầu tiên, hôm nay Người dẫn các ông đến hội đường Caphácnaum vào ngày sa bát. Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc được xem như bài tóm tắt hoạt động của Chúa Giêsu: giảng dạy và trừ quỷ. Cả hai đều tỏ cho thấy uy quyền có sức cứu độ của Ngài.
Khi Chúa Giêsu lên tiếng trong hội đường, ai nấy đều sửng sốt bỡ ngỡ về lời Người giảng dậy, vì “Người giảng dạy như một đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư” (Mc 1, 22). Các kinh sư giảng dạy ra sao ? Đối với người Do Thái, điều thiêng liêng nhất là Luật Môsê. Luật chứa đựng tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn đời sống và đức tin. Do đó tất cả việc phải làm là ra sức nghiên cứu Luật thật cặn kẽ thấu đáo, và giữ Luật thật tỉ mỉ cẩn thận. Tuy nhiên, bởi vì Luật của Môsê chỉ dạy cách tổng quát, nên cần phải được giải thích, triển khai cho sáng tỏ chi tiết để biến thành quy tắc hướng dẫn hành động trong mọi tình huống của cuộc sống.
Bởi vậy có cả một giai cấp học giả là các kinh sư chuyên về Luật, rút ra từ Luật hằng hà sa số chẳng bao giờ cùng những luật lệ qui tắc, chồng chất lên vai người dân như những “gánh nặng” (Mt 11,28; 23,4). Công việc của họ là giảng dạy nhân danh Luật: “Luật dạy rằng…”, chứ không dám tự mình dạy bảo điều gì. Do đó, họ chỉ thường “nói mà không làm” (Mt 23,3), thậm chí còn “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Họ giảng dạy chỉ để tỏ ra mình thông thái đạo đức, hoặc để tìm kiếm hưởng những mối lợi cho bản thân (Mc 12, 38-40).
Thật khác xa với Chúa Giêsu, điều mà đám đông dân chúng nhận ra ngay từ khi Người bắt đầu lên tiếng dạy dỗ họ. Người giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh. Đằng sau những lời Người nói, Người tỏ ra Người có uy quyền của Thiên Chúa, uy quyền ấy không nhằm tìm kiếm gì cho bản thân ngoài ân sủng giúp lay chuyển lòng con người đưa đến hoán cải và ơn cứu độ. Đối với dân chúng, những lời của Chúa Giêsu thật mới mẻ và có sức đánh động.
Và khi nhìn vào Đức ThánhCha Phanxicô, ta thấy Ngài rất “sợ” một Hội Thánh vô tình “nhốt mình trong các cơ cấu… các luật lệ, là những gì biến chúng ta thành những quan toà không biết mủi lòng, với những thói quen là những gì làm cho chúng ta cảm thấy an toàn, trong khi bên ngoài có vô số người đói khát. Đói khát đây là đói khát cơm ăn áo mặc, nhưng nhất là đói khát Lời có sức cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới có Lời ban sự sống, ban phúc trường sinh (Ga 6,63. Ep 5,26).
Lời của Chúa Giêus làm cho dân chúng sửng sốt kinh ngạc, thì việc làm của Người khiến họ càng kinh ngạc hơn: có một người bị quỉ nhập ở ngay trong hội đường, và chỉ khi gặp Chúa Giêsu nó mới hét lên vì thấy mình yếu thế hơn. Nó thấy có “Đấng Thánh” mạnh hơn, quyền thế hơn nó, có khả năng tiêu diệt vương quốc của nó: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?” (Mc 1,24). Đức Giêsu không làm bùa chú ma thuật như các thầp pháp trừ quỷ thường làm, Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này” (Mc 1, 26). Thần ô uế vâng lời. Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Người để giải thoát loài người khỏi sức mạnh đen tối của quỷ dữ.
Trong Tin Mừng của Mác cô, hoạt động trừ quỷ của Chúa Giêsu chiếm một vị trí quan trọng (Mc 1,34-39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29). Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ quỉ này (Mc 3,15; 6,7.13). Người công bố: “Nếu Tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12, 28). Đức Giêsu đúng là Đấng cứu độ loài người, sứ mạng của Người là cứu loài người khỏi tay ma quỉ, khỏi thần chết. Người tới đâu là quỉ dữ bị xua trừ, như ánh sáng đến đâu thì bóng tối bị đẩy lui tới đó. Người đi đến đâu thì Tin Mừng Nước Trời được rao giảng, người bệnh được chữa lành, kẻ tội lỗi được hoán cải thứ tha… ma quỉ và mọi sự dữ chúng bày ra để hãm hại loài người bị thất bại tới đó.
Trong cuộc họp báo với Đức Thánh Cha Phanxicô trên chuyến bay từ Rio về Rôma sau Đại hội Quốc tế Giới trẻ, người ta đặt vấn đề với ngài về những hiện tượng tiêu cực đã và đang xảy ra bên trong và ngoài Hội Thánh: gương xấu của một số Linh mục, vấn đề gian tham trong Giáo Hội, nạn duy giáo sĩ… cho đến chuyện hôn nhân đồng tính, phá thai… có lẽ để yêu cầu ngài có biện pháp nào đó, hay đưa ra quan điểm để lên án, đối phó, ngài đáp rằng: "Không cần phải nói về chúng, mà nên nói về những điều tích cực giúp người trẻ tiến bước. Dù sao, người trẻ biết rất rõ đâu là chủ trương của Giáo Hội".
Đức Thánh Cha còn chia sẻ : “Chúa Giêsu hay quên. Ngài có một khả năng đặc biệt để quên. Chúa Giêsu quên, Ngài hôn, ôm lấy, và chỉ nói: không ai và tôi lên án bạn; hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. Thiên Chúa không bao giờ biết mỏi mệt khi tha thứ, không bao giờ, chính chúng ta là kẻ cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin lòng thương xót của Người”, ngài nhắc lại một câu đã viết trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng.
Nói như vậy, ta thấy không có nghĩa Đức Thánh Cha chủ trương một thứ “ân sủng rẻ tiền, dễ dãi”, và rằng Thiên Chúa là đấng không quan tâm tới tội lỗi. Trái lại, từ lúc được bầu làm Giáo hoàng, ngài nói nhiều về tội lỗi và ma quỉ, về tình trạng nhân loại đang cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tự sức mình con người không thể nào vượt qua được các biên giới của bản tính sa ngã, niềm hi vọng cứu rỗi của chúng ta ở nơi Đức Kitô, chỉ mình Người là đấng sẽ cứu chúng ta bằng quyền năng cứu độ của Người, con người cần đến Tin Mừng của Người.
Ta thấy quá nhiều lần Đức Thánh Cha đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô. Hội Thánh phải làm điều đó không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng. Đức Thánh Cha đã kêu gọi một Hội Thánh nhẹ nhàng giản dị, không bị ràng buộc bởi bận tâm chăm sóc cho bản thân theo tinh thần thế tục, và lòng ham muốn của cải với những gì thuộc về thế gian. Ngài mơ ước “một Hội Thánh nghèo và cho người nghèo”.
Hẳn mỗi người còn nhớ rằng lần kia khi về hành hương quê hương vị Thánh Nghèo thành Assisi, ngài nói: “Tôi đến đây để cầu nguyện cho mọi Kitô hữu, cho Hội Thánh, cho tất cả mọi người thiện tâm, để họ biết từ bỏ của cải hay tất cả những gì không cần thiết, như vậy mới có thể sống khó nghèo và khao khát tình yêu”.
Hội Thánh của Đức Kitô hôm nay vẫn tiếp tục được sai đi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và thực thi những việc làm của lòng xót thương. Sứ vụ của Hội Thánh nhất định không phát xuất “từ một ước muốn thống trị hay quyền lực, nhưng từ sức mạnh của tình yêu, từ Đức Giêsu đấng đã đến giữa chúng ta, và trao ban cho chúng ta không chỉ một phần của Ngài, nhưng trọn vẹn con người Ngài. Ngài trao ban cho chúng ta cuộc sống của Ngài để cứu độ chúng ta, và để tỏ cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa… Ngài không chỉ sai chúng ta đi, Ngài đồng hành với chúng ta, Ngài luôn luôn ở bên chúng ta trong sứ vụ tình yêu của chúng ta”
Huệ Minh
Thứ Tư Tuần I Mùa Thường Niên
Dt 2, 14-18; Mc 1, 29-39
HÃY ĐẾN NHỮNG LÀNG MẠC ...
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe chúng ta thấy Thánh Máccô hôm nay phác họa lại chân dung Đức Giêsu lưu tâm đến những người đau khổ lầm than: “Ra khỏi hội đường, Chúac Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1, 29-31) và “ Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1, 34).
Ta thấy Chúa Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và khốn cùng vây quanh ; Chúa đã đến với họ để cảm thông, chia sẻ và chữa lành tất cả mọi thứ bệnh tật cho họ. Các phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm trên những người đau khổ bệnh tật diễn tả cho chúng ta thấy rằng Nước Thiên Chúa đã đến và thời cánh chung đã được mở ra nơi Đức Giêsu.
Tin Mừng cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu hiện thân như một vị “bác sĩ”, nhưng vị “bác sĩ” này rất khác người, chữa bệnh không cần thuốc men nhưng bằng uy quyền của Thiên Chúa, Người làm việc không biết mệt mỏi, liên tục chữa lành các loại bệnh cho nhiều bệnh nhân, bệnh nhẹ cảm sốt như bà nhạc gia Simon đến những bệnh nhân nặng do bị quỷ ám. Ơn Cứu Độ của Chúa không chỉ cứu độ về phần tâm linh, nhưng Chúa còn chữa bệnh nơi thể xác hữu hình để bệnh nhân lấy lại sức khỏe tiếp tục cuộc sống đời thường, Chúa nhìn thấy họ đau đớn khổ sở về thân xác Ngài động lòng thương, cảm thông và đã đem sự an lành cho họ về mặt thể xác.
Hình ảnh Chúa Giêsu “lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy” đã họa lại cho chúng ta hình ảnh về một Thiên Chúa vô cùng nhân từ đã vì thương yêu mà đưa tay cứu chữa. Người đã chạnh lòng thương đối với phận người mỏng manh yếu đuối, như người cha xót thương đứa con thơ dại, cho nên Người đã “cầm lấy tay” mà “đỡ dậy” con người – “những kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật”. Người đã đi vào giữa lòng biển khổ của nhân loại, đã chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, dù ngày đã xế chiều, mặt trời đã lặn xuống.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Chúa Giêsu cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà. Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm, nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được, gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình. Chúa Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống. Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại. Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả. Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé. Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Ơn cứu độ nơi Người cũng vì thế mà không dành cho riêng ai, nhưng là dành cho tất cả mọi người, trong khắp mọi nơi. Chính Chúa Giê su đã khẳng định tình yêu chân thành ấy. “Hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Quả vậy, tiếp nối bước chân Chúa Giêsu, từ mười hai vị tông đồ của Chúa, Lời của Chúa đã được lan truyền khắp năm châu, bốn bể và ơn cứu độ của Người đã lan tràn khắp hướng. Tuy nhiên, những người tin vào Đấng Cứu Thế vẫn còn khá khiêm tốn, và cánh đồng truyền giáo của Hội thánh vì thế vẫn còn là mênh mông, rộng lớn. Hôm nay đây, Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Bởi thế giới hôm nay vừa phải đối diện với khổ đau, bệnh tật, vừa đói khát Thiên Chúa. Người cũng mời gọi chúng ta cùng nhau chia sẻ, cùng chung tay xoa dịu những khổ đau, đói khát của con người.
Thánh Máccô hôm nay còn cho thấy một bức tranh rất thực về những việc hàng ngày của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Bức tranh sống động về một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một con người năng động và nhạy bén trong tình yêu, trong mọi công việc rao giảng Tin Mừng; từ việc giảng dạy trong các hội đường đến những làng mạc xa xôi, từ việc chữa lành bệnh nhân cho đến việc trừ quỷ…, nhưng đâu đó trong bức tranh sống động ấy vẫn họa lên một không gian yên tĩnh mà ở đó ta bắt gặp một Chúa Giêsu khác – Chúa Giêsu – con người của cầu nguyện. Quả thế, ngay từ “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”.
Cầu nguyện luôn luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống hàng ngày của Chúa Giêsu. Người đã kết hiệp trọn vẹn với Chúa Cha trong khi vẫn sống hết mình cho con người nhân thế. Bởi lẽ sống của Người là kết hiệp với Chúa Cha và thi hành thánh ý của cha mình. Máccô không chỉ dẫn ra cho chúng ta thêm một lần nữa về tình yêu của Chúa đối với con người, và sự cấp thiết trong việc rao truyền Lời Chúa cho mọi người, xong còn chỉ dạy cho chúng một bài học quý giá rằng không phải chỉ có công việc, nhưng cầu nguyện luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người.
Cầu nguyện giúp mỗi người quân bình trong đời sống và có được sự sáng suốt trong các quyết định của mình. Quan trọng hơn, cầu nguyện giúp ta biết mình là ai trong mối tương quan với Chúa và anh em. Nó cũng sẽ giúp mỗi người chúng ta gặp gỡ Chúa và xây dựng mối liên hệ mật thiết với Người, khích lệ chúng ta học biết nơi tấm gương tuyệt hảo là chính Chúa Giêsu, người đã luôn sống một cuộc sống hài hòa giữa hoạt động và cầu nguyện.
Thực tại trong xã hội có biết bao người đang gặp đau khổ, nghèo đói và những người bị lãng quên. Họ đang cần chúng ta hơn bao giờ hết, họ đang cần những cánh tay và tấm lòng mở rộng của chúng ta để cảm thông, chia sẻ và an ủi họ.
Và rồi khi đứng trước những đau khổ của thời đại hôm nay, mỗi người chúng ta được mời gọi sống theo mẫu gương Chúa Giêsu, biết ra khỏi vỏ bọc ích kỷ của chính bản thân để đến với họ bằng những việc làm cụ thể. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã nhiều lần nhắc nhở các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires rằng: “Tôi thích một Giáo hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn khi bước ra đường phố hơn là một Giáo hội bị bệnh tật vì đóng kín và an toàn bám víu vào những thứ bảo đảm cho mình. Tôi hy vọng, ai trong chúng ta cũng hãy thoát ra khỏi chình mình để đến với những con người đang đau khổ và bệnh tật như Lời Đức Giêsu dạy: ‘Chính anh em phải cho họ ăn’ (Mc 6, 37)”.
Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa không dành cho riêng cho riêng ai, mà dành cho tất cả mọi người. "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa" (Mc 1, 38).
Và rồi ta thấy, từ mười hai vị tông đồ của Chúa, Lời của Chúa đã lan truyền khắp năm châu. Ơn Cứu Độ của Chúa đã lan tỏa khắp bốn phương. Tuy nhiên, nhìn lại tổng dân số đang hiện diện trong đầu thế kỷ 21 hôm nay, số người tin vào Đấng Cứu Thế vẫn còn khá khiêm tốn. Chẳng nhìn đâu xa, ngay trên đất nước Việt Nam, dân số xấp xỉ 90 triệu người, số giáo dân Công Giáo xấp xỉ 7 triệu tín hữu. Cánh đồng truyền giáo của chúng ta còn bát ngát bao la. Lời của Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đang mời gọi mọi người: “chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận …” (Mc 1, 38a) để loan báo Tin Mừng cho mọi người.
Thứ Năm Tuần I Mùa Thường Niên
Dt 3, 7-14; Mc 1, 40-45
ĐẾN VỚI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
Theo quan điểm Do Thái giáo, bệnh phong hủi là một sự ô uế cho xã hội. Người mắc bệnh phong hủi phải ở riêng, không được đến gần ai, và cũng không ai được đến với họ cho đến khi lành bệnh và được thanh tẩy theo nghi lễ.
Trong Đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng. Họ bị xua đuổi vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong.
Đứng trước nỗi đau thể xác và tinh thần của người phong hủi, Chúa Giêsu, thay vì phải xa lánh con bệnh kẻo bị ô uế, đã chạm đến anh ta để chia sẻ nỗi đau khổ cùng anh và chữa anh lành bệnh. Chúa thương anh không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động cụ thể. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị chủng tộc, bệnh tật, cấm kị, phân biệt giàu nghèo... Chúa là tất cả cho mọi người.
Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của thời Thiên Sai (Mt 11, 25; Lc 7, 18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Chúa Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Đây là một lời cầu xin đẹp lòng Chúa Giêsu qua câu “Nếu Ngài muốn”. Anh coi ý muốn của Chúa quan trọng hơn ý muốn của anh, và phó thác cho Người toàn quyền quyết định có cứu chữa anh hay không.
Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã chạm đến lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền năng của Chúa Giêsu.
Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Chúa Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Chúa Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Chúa Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
Với tất cả lòng chạnh thương trước nỗi khốn khổ của anh ta, Chúa đã sẵn sàng mở rộng vòng tay đón anh về lại cuộc sống. Đang khi mọi người sợ bị nhơ uế mà không dám tiếp xúc với anh ta, thì nay Chúa đã đưa tay ra và chạm đến anh. Cánh tay chất chứa lòng xót thương của Ngài đã nối kết giữa sự thánh thiện, tốt lành của Thiên Chúa với tình trạng bị coi là nhơ uế, tội lỗi của con người. Sự thánh thiện của Thiên Chúa đã thánh hóa tình trạng nhơ uế, tội lỗi của con người.
Điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Chúa Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Chúa Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Chúa Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Chúa Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Chúa Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúa Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Chúa Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15, 22).
Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng của Chúa Giêsu.
Anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Chúa Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
Ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
Thứ Sáu Tuần I Mùa Thường Niên
Dt 4, 1-5. 11; Mc 2, 1-12
MẠNH DẠN ĐẾN VỚI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
Với Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marcô không chỉ đơn thuần kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại mà ngài còn muốn nhấn mạnh đến một thực tại huyền nhiệm : đó là quyền tha tội - quyền mà chính Chúa Giêsu đã trao cho Hội Thánh. Điều này vẫn thường được chúng ta tuyên tín trong kinh tin kính : “tôi tin phép tha tội”.
Thế nhưng mà việc “tôi tin” với việc tôi ý thức đón nhận có đi cùng nhau không lại là một vấn đề. “Phép tha tội” là một Bí tích. Điều này có nghĩa là ngoài việc tin “phép tha tội” sẽ giúp ta hòa giải với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình, chúng ta còn cần phải thường xuyên đón nhận Bí tích này, và chuẩn bị tâm hồn để đón nhận cách xứng đáng.
Anh được bốn người khiêng anh đến với Chúa Giêsu để xin chữa bệnh. Vì đám đông dân chúng quá đông, nên không dễ dàng khiêng người bại liệt đến gần Chúa, mà họ phải đưa anh lên mái nhà, dỡ mái nhà và đưa người bất toại xuống ngay chỗ Chúa Giêsu đang ngồi giảng dạy dân chúng.
Người bất toại bất lực, nhưng không thất vọng; trái lại, anh hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Giêsu, tin vào quyền năng vô song của Ngài, đặc biệt, anh tin vào tình thương của Chúa trên hết mọi người. Cả những người khiêng anh cũng thế, đức tin vững mạnh của họ thúc đẩy họ giúp đỡ người bất toại đến với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã hết sức kinh ngạc trước lòng tin này. Lòng tin mạnh mẽ không lùi bước trước khó khăn cản trở. Lòng tin đầy sáng tạo, dám tìm ra những con đường mới mẻ và khác thường. Lòng tin mang tính tập thể, vì là niềm tin của cả nhóm năm người. Lòng tin đòi vất vả, đổ mồ hôi, chứ không chỉ ở trong tâm trí. Lòng tin táo bạo vì dỡ mái nhà có thể bị Chúa Giêsu coi là là khiếm nhã.
Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?” Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: “Trong hai điều: một là bảo người bất toại: “Con đã được tha tội”, hai là bảo: “Ðứng dậy, vác chõng mà đi”, điều nào dễ hơn”. Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: “Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”, lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
“Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng : "Hỡi con, tội lỗi con được tha".
Chúa chữa bệnh phần hồn cho anh trước : "Hỡi con, tội lỗi con được tha". Ngài chữa cho anh, vì anh có lòng tin vào Chúa. Đức tin là điều kiện để được đón nhận ơn Chúa : ở đây là sự tha thứ. Ngài chữa bệnh phần hồn cho anh, vì Ngài là Đấng có quyền tha tội, nghĩa là chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi.
Cần phải chữa bệnh phần hồn trước, xóa mọi tội lỗi nơi con người trước, vì tội lỗi là nguyên nhân gây nên những đau khổ cho con người; tội lỗi đang thống trị con người, và tội lỗi làm cho con người phải chết.
Kế đến, Chúa Giêsu chữa cho người bất toại bệnh tật phần xác. Ngài nói với người bất toại rằng : "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà". Lập tức người bất toại đứng dậy vác chõng đi ra trước mặt mọi người.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Như người đàn ông trong Tin Mừng, chúng ta không chỉ mắc những căn bệnh thể lý mà chúng ta còn mang trong mình “căn bệnh tâm linh” cần được Chúa chữa trị. Thiên Chúa luôn sẵn lòng chữa lành linh hồn, thể xác, tâm trí của chúng ta. Đừng để cho những nghi nan cản trở chúng ta đến với Chúa nhưng hãy tin tưởng vào Ngài và siêng năng đón nhận các bí tich là những “phương dược” để nuôi dưỡng và chữa lành chúng ta.
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Có những căn bệnh mà người Do Thái cho rằng đó là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên bệnh nhân vì họ tội lỗi. Tin Mừng hôm nay cho thấy người bất toại bất lực không làm gì được, anh ta phải cần đến người khác giúp đem mình đến gần Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành. Từ một đôi chân tưởng chừng như không bao giờ anh đi được, nhưng với lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, anh đã được chữa trị cả bệnh tật thể xác lẫn tâm hồn: “Tội con đã được tha rồi!” và “Hãy đứng dậy, vác chõng của con mà đi về nhà!”. Anh trút được cái ách nặng nề. Cuộc sống của anh bắt đầu tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
Mỗi chúng ta đều là một bệnh nhân cần được chữa trị, một tội nhân cần được thứ tha. Mang những thương tích trong tâm hồn mình đến với Chúa với lòng tin mạnh mẽ, chắc chắn ta sẽ được Chúa chữa trị và tìm lại được sự bình an, thanh thản và niềm hạnh phúc sâu xa. Liên đới trong đức tin và đức ái, chúng ta cũng cần giúp ‘khiêng những anh chị em bất toại’ xung quanh mình đến với Chúa để được Người chữa lành.
Thứ Bảy Tuần I Mùa Thường Niên
Dt 4, 12-16; Mc 2, 13-17
THIÊN CHÚA VÀ LÒNG CHẠNH THƯƠNG
Sau khi nhận phép rửa từ sông Giordan, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người. Tại Galilê, Người đã kêu gọi một số môn đệ đầu tiên, giảng dậy và chữa lành các bệnh nhân đau khổ về thể lý cũng như tinh thần. Hôm nay, thánh Marcô muốn làm nổi bật tình yêu và lòng thương xót của Chúa Giêsu cho những người bị coi là tội lỗi như Lêvi, một trong những người thu thuế cho Đế Quốc Rôma.
Ðối với người Do thái, những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc; thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ, vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.
Lêvi làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu. Chúa đi ngang qua trạm thu thế, thấy ông Lêvi đang ngồi ở đó liền bảo ông: “hãy theo tôi”. Có lẽ những người Pharisiêu và Biệt phái hiểu rằng, Chúa Giêsu hướng đến ông để cố lôi ông ra khỏi môi trường tội lỗi, nhưng ngài có sự phân biệt rõ ràng từ môi trường ấy.
Người không chỉ nói mà còn ăn uống với họ, khiến cho những người tự coi mình là công chính và giữ mình cho khỏi ô uế càng trở nên bực bội, họ phàn nàn, chỉ trích với các môn đệ: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!” Nghe vậy, Người liền nói: “người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17).
Quả vậy, Chúa Giêsu đã không chọn những người tự cho mình công chính làm môn đệ của Người, nhưng đã chọn Lêvi, còn gọi là Mathêu (tác giả sách Tin Mừng), gia nhập vào hàng ngũ của các tông đồ.
Nhưng đó không phải là thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ, đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: "Sao ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi". Chúa Giêsu nghe những lời chỉ trích này và Ngài giải thích: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi".
Lòng thương xót đó được biểu lộ qua việc Chúa kêu gọi ông Lêvi, một kẻ thu thuế. Vì ông làm nghề thu thuế nên dân chúng đồng hoá ông với kẻ tội lỗi, trộm cướp, bất lương, bất chính, đáng khinh bỉ và phải tránh né. Nhưng hôm nay Chúa đến với ông bằng ánh mắt yêu thương trìu mến. Ngài dịu dàng nói với ông: “Hãy theo Ta” (c 14). Ông đã đứng dậy đi theo Người. Ánh mắt đầy yêu thương và lời nói dịu dàng đá biểu lộ tấm lòng đầy xót thương của Chúa, đã giải thoát ông khỏi nô lệ tiền bạc. Cũng như xưa ánh mắt của Chúa nhìn ông Phêrô đã thôi thúc ông ăn năn hối cải. “Ông đứng dậy đi theo Người”, đó là biểu lộ tấm lòng ăn năn, từ bỏ mọi sự và đi theo Chúa. Hành động ấy còn nói lên tâm hồn đơn sơ thành thực, thái độ ngoan ngùy tuân theo ơn Chúa soi sáng. Như thầy thuốc chữa bệnh cho con bệnh, Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi. Không phải Chúa chấp nhận tội lỗi của họ, nhưng kêu gọi họ ăn năn trở về với Chúa.
Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta: “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha trên trời là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông thư Năm Thánh Lòng Thương Xót, đã khẳng định: “Chúng ta cần phải chiêm ngắm mầu nhiệm lòng Chúa thương xót” (số 1-2), “vì lòng Chúa thương xót vừa là nguồn mạch của niềm vui, sự thanh thản và bình an, vừa là “điều kiện để chúng ta được ơn cứu độ” (số 2), đồng thời chúng ta cũng cần phải có những việc làm biểu lộ lòng thương xót (số 3). Điều khẳng định này của Đức Thánh Cha cho chúng ta hiểu rằng không có cầu nguyện, không có sự chiêm ngắm lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể có lòng thương xót như Chúa Cha. Lòng thương xót khởi đi từ cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu cũng đã cầu nguyện trước khi bước vào cuộc tử nạn là đỉnh cao của lòng thương xót.
Thời xưa và ngày nay cũng thế ! Ngày nay ta thấy không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
Ta thấy Thiên Chúa đã so sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Ngài.
Với và qua trang Tin Mừng hôm nay dạy mỗi người chúng ta phải biết sống khiêm nhường, hiền hoà, bao dung, ý thức mình là người mang thân phận mỏng dòn, yếu đuối và tội lỗi để cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Nếu chúng ta có được nên công chính hoá, thì cũng là ân sủng Chúa ban cách nhưng không, chứ không do công trạng của chính chúng ta. Vậy, để nên người tông đồ đích thực của Chúa, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta phải là người có đức khiêm nhường, hiền hoà và kiên nhẫn theo gương thầy chí thánh là Đức Kitô.
-
January 17, 2022