suy niệm mùa vọng năm C

by Huệ Minh

 

Chúa Nhật 1 mùa Vọng năm C-2024

Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36

1. MỞ LÒNG CHỜ CHÚA ĐẾN

Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai.

Thiên Chúa đã thiết lập giao ước tình yêu với dân, Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng thế nhưng mà dân đã không nhận ra tình yêu đó. Nói không nhận ra thì cũng không đúng. Nhận ra đó nhưng nhiều lúc cứng tin và nản lòng nản chí để rồi đi tìm cho mình một thần minh khác ngoài Thiên Chúa. Cứ tưởng là thần minh đó sẽ làm cho cuộc đời mình, làm cho dân tộc mình khá hơn dân tộc khác nhưng đâu có biết rằng dân cứ mãi bước đi trong lầm than.

Đã quá nhiều lần bỏ Chúa để đi thờ thần này, tượng kia. Ít là hơn một lần kinh nghiệm của việc dựng bò vàng lên để thờ hay chạy theo các thần của Baal. Lẽ ra chỉ thờ mình Thiên Chúa vì Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ của đời mình nhưng không, đi tìm thần khác.

Thiên Chúa, Ngài cũng giận đó chứ nhưng Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Độ dù dân của Ngài cứ phải lòng chai dạ đá với Ngài.

Bằng cách này cách khác, người này người kia, Thiên Chúa, nói to cũng có, nói nhỏ cũng có rằng sẽ có Đấng Cứu Độ đến để giải thoát dân và mang ơn cứu độ cho dân.

Hôm nay, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta nghe đây lời Chúa phán: Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: “Thiên Chúa, Đấng Công Chính của chúng tôi”.

Thế đó, ngày Đấng Công Chính đến sẽ giải thoát cho dân và sẽ cho dân sống một cuộc sống yên ổn, bình an và hạnh phúc.

Và, sau đó một thời gian dài, Đấng Cứu Độ trần gian mà các ngôn sứ đã đến ở giữa trần gian, để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho dân.

Trong hành trình loan báo Ơn Cứu Độ, loan báo Tin Mừng, nhiều và quá nhiều lần Chúa Giêsu nói cho mọi người biết về ngày mà Con Người đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.

Hôm nay, qua trang Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.

Không chỉ thế, Chúa Giêsu còn dạy thêm cho các môn đệ rằng: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!”

Trong tâm tình đó, nhiều và nhiều lời được khuyên nhủ, được loan báo tư thế của những người đón chờ Đấng Cứu Độ trần gian, đón chờ Chúa đến.

Để đón chờ Chúa đến, chờ Đấng Cứu Độ đến, đời sống của chúng ta cũng phải sống trong tâm tình chờ đợi. Tâm tình chờ đợi đó được Thánh Phaolô tông đồ gửi thư cho giáo đoàn Thessalônica cũng như gửi cho mỗi người chúng ta: Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh.

Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.

Vâng ! Có lẽ lời mời gọi của thánh Phaolô là một lời mời gọi hết sức thiết thực, hết sức gần gũi với mỗi người chúng ta.

Hãy sống làm sao như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, bình an và hạnh phúc. Tính đi tính lại, cuộc đời chúng ta thật vắn vỏi.

“Ngàn năm Chúa kể là gì,

tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,

khác nào một trống canh thôi!”(c. 4)

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.

(Tv 89, 10)

“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (c. 2).

Để rồi từ đó, ta mỗi ngày thức dậy ta nguyện xin:

“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,

để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (c. 14).

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn hướng về ngày cuối cùng của đời ta và ta luôn sống trong tâm tình chờ đợi Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Lm. Anmai, CSsR 2024

 

bài 2. MÙA TỈNH THỨC

Mùa Vọng không chỉ là thời gian chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh, mà còn là dịp để mỗi người Kitô hữu sống trong sự mong đợi ngày Chúa đến trong vinh quang. Đây là mùa của hy vọng, là lời nhắc nhở rằng cuộc đời chúng ta không phải là một hành trình vô định, mà là một con đường có đích đến. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải “đứng thẳng và ngẩng đầu lên,” vượt qua những lo lắng, mê đắm của thế gian để hướng tâm hồn về những giá trị cao cả và vĩnh cửu.

Mùa Vọng là cơ hội để chúng ta tự hỏi: Tôi đang sống như thế nào? Tôi có đang tỉnh thức để chờ Chúa đến không? Hãy nhớ rằng, đời sống Kitô hữu không chỉ là chờ đợi thụ động, mà là một cuộc hành trình tích cực trong sự chuẩn bị và sẵn sàng.

Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh cụ thể để minh họa thái độ sống tỉnh thức: “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên.” Đây không chỉ là những hành động vật lý, mà là biểu tượng của lối sống mang đậm tính thánh thiện và trách nhiệm.

 “Đứng thẳng” là tư thế của người mạnh mẽ, kiên cường trước những thách thức và cám dỗ. Trong cuộc sống, chúng ta thường bị lôi kéo bởi những thứ như danh vọng, tiền bạc, dục vọng, hoặc sự ích kỷ. Đứng thẳng đòi hỏi chúng ta không bị khuất phục trước những điều này, mà thay vào đó, sống một cuộc đời ngay chính và trung thành với lương tâm.

Đứng thẳng giúp chúng ta chống lại những lôi cuốn dễ dãi, những mời mọc hào nhoáng nhưng làm hủy hoại tâm hồn.

Đứng thẳng còn là thái độ của người luôn ý thức rằng mình được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, và vì vậy, mình có trách nhiệm giữ gìn phẩm giá đó.

 “Ngẩng đầu lên” không chỉ là hành động hướng về Chúa, mà còn là thái độ sống biết nhìn lên những giá trị cao cả. Người Kitô hữu không sống chỉ để tìm kiếm những thứ vật chất hay niềm vui tạm bợ, mà luôn hướng về sự sống đời sau.

Trong đời sống hiện tại, ngẩng đầu lên có nghĩa là sống một cách ý nghĩa và làm tròn bổn phận của mình. Hãy tự hỏi: Tôi đang sống để làm đẹp lòng Chúa hay chỉ chạy theo những lo lắng, bận tâm của đời này?

Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tinh thần tỉnh thức, Chúa Giêsu đã dùng hai dụ ngôn sâu sắc:

Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn sẵn sàng, “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn.” Sự sẵn sàng này không phải là một thái độ căng thẳng, mà là một cách sống chủ động và có trách nhiệm. Chúng ta không biết ngày giờ Chúa đến, vì vậy, mỗi giây phút trong hiện tại là cơ hội để sống thật tốt đẹp.

Sẵn sàng không chỉ là chờ đợi Chúa đến trong ngày sau hết, mà còn là chờ đợi Chúa đến mỗi ngày qua lời cầu nguyện, Thánh Lễ, và những người xung quanh.

Tỉnh thức giúp chúng ta làm tốt mọi công việc đời thường, bởi vì qua đó, chúng ta đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Người quản gia trung thành là người biết rằng mọi thứ mình có đều là của Chúa. Họ không coi tài sản, tài năng hay thời gian là của riêng mình, mà là những món quà Chúa trao phó để sinh lợi.

Câu chuyện về người làm vườn ở Thụy Sĩ là một minh họa tuyệt vời cho tinh thần này. Dù ông chủ không thường xuyên đến thăm, người làm vườn vẫn tận tâm chăm sóc từng chi tiết, bởi vì ông coi việc đó là bổn phận và niềm vui của mình. Đây cũng là cách chúng ta nên sống: làm mọi việc với tình yêu và lòng biết ơn, dù là việc nhỏ nhặt nhất.

Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta rằng mỗi giây phút hiện tại là một cơ hội quý giá để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu. Thời gian là món quà Chúa ban, và mỗi phút giây trôi qua đều không bao giờ trở lại.

Đừng lãng phí thời gian vào những điều vô nghĩa hay những đam mê tội lỗi.

Hãy tích cực làm việc, cầu nguyện, và xây dựng các mối quan hệ yêu thương, bởi vì đó chính là cách chúng ta tích trữ kho tàng trên trời.

Ngày Chúa đến có thể là ngày vui mừng hay kinh hoàng, tùy thuộc vào cách sống hiện tại của mỗi người. Những ai tỉnh thức và sống trong ân sủng sẽ được cứu độ, nhưng những ai mê ngủ trong đam mê và tội lỗi sẽ đối diện với sự phán xét nghiêm minh.

Tỉnh thức không phải là một trạng thái lo sợ, mà là một cuộc sống tràn đầy hy vọng và bình an. Khi chúng ta tỉnh thức, chúng ta sống mỗi ngày như một món quà, biết ơn những gì mình có và sẵn sàng đối diện với bất kỳ thử thách nào.

Xin Chúa giúp chúng ta biết sống như ngọn đèn chầu trước Nhà Tạm, luôn cháy sáng và sẵn sàng trước nhan Chúa. Hãy nhớ rằng Mùa Vọng không chỉ là thời gian chờ đợi Chúa đến trong lễ Giáng Sinh, mà còn là thời gian chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng với Ngài.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự tỉnh thức trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời. Xin giúp chúng con sống mỗi ngày trong tình yêu, sự khiêm nhường và trách nhiệm, để khi Chúa đến, chúng con có thể vui mừng đón nhận Ngài trong hân hoan và bình an. Amen.

Lm. Anmai, CSsR 2024

 

bài 3. TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

Mùa Vọng khởi đầu một năm Phụng vụ mới, là thời gian đặc biệt mời gọi mỗi người Kitô hữu sống trong sự chờ mong, hy vọng và tỉnh thức. Trong tâm trí nhiều người, Mùa Vọng có thể được hiểu đơn giản là chuẩn bị tâm hồn đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Nhưng Giáo Hội còn muốn chúng ta hướng đến một chiều kích khác sâu xa hơn: Chờ đợi ngày Chúa đến trong vinh quang, ngày phán xét cuối cùng.

Bài Tin Mừng hôm nay dường như không nói nhiều về sự kiện Chúa Giáng Sinh tại Belem, nhưng lại tập trung vào ngày Chúa tái lâm. Giáo Hội muốn qua đó, chúng ta hiểu rằng việc chờ mong Chúa không chỉ là sự hoài niệm về quá khứ, mà là hướng tới tương lai vĩnh cửu, nơi chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa trong sự viên mãn và hoàn hảo.

Mùa Vọng mời gọi chúng ta sống trong thái độ tỉnh thức và cầu nguyện. Chính qua thái độ này, chúng ta sẽ có được sự bình an, niềm hy vọng, và khả năng nhận ra Chúa đang đến trong từng khoảnh khắc của cuộc đời.

Trong bài giảng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những hướng dẫn rất rõ ràng để chuẩn bị tâm hồn cho ngày Chúa đến và đi vào thế giới mới. Những hướng dẫn này giúp chúng ta hiểu được sự chuyển giao giữa hai thế giới: thế giới hiện tại và thế giới tương lai.

Chúng ta đang sống trong một thế giới giới hạn bởi thời gian, không gian, và quy luật tự nhiên. Mọi vật trên thế giới này đều có khởi đầu và kết thúc. Mặt trời, mặt trăng, và cả những gì dường như vững bền nhất cũng sẽ qua đi. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng, thế giới hiện tại không phải là nơi trú ngụ mãi mãi, mà chỉ là một điểm dừng chân tạm thời.

Khi thế giới này qua đi, Chúa sẽ khai sinh một thế giới mới, nơi vĩnh cửu và tuyệt đối. Đây không phải là sự hủy diệt hoàn toàn, mà là một sự biến đổi mang lại niềm hy vọng lớn lao cho con người.

Điều quan trọng là chúng ta phải ý thức rằng chính bản thân mình cũng sẽ bước qua ranh giới này. Liệu chúng ta sẽ chìm vào hư vô cùng với thế giới cũ, hay sẽ được sống trong vinh quang với Chúa ở thế giới mới? Câu trả lời phụ thuộc hoàn toàn vào cách chúng ta sống trong hiện tại.

Chúa Giêsu nhắc nhở rằng mọi sự trong vũ trụ này đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài là Đấng làm chủ thời gian và không gian, Đấng đã định ra thời hạn cho thế giới hiện tại.

Ngày Chúa đến không phải là ngày hủy diệt, mà là ngày hoàn tất kế hoạch cứu độ. Qua sự xét xử, Chúa sẽ thanh lọc thế giới cũ và khai sinh một thế giới mới. Sự xuất hiện của thế giới mới không phải là kết thúc, mà là một sự tái tạo. Đây là thế giới của niềm vui, sự bình an và hạnh phúc đời đời, nơi con người được sống trong sự viên mãn của Thiên Chúa.

Nhận biết Chúa làm chủ lịch sử giúp chúng ta sống trong sự vững tin và hy vọng. Dù cuộc đời có khó khăn hay đầy rẫy những bất công, chúng ta biết rằng Chúa luôn đồng hành và sẽ đưa chúng ta đến nơi hạnh phúc vĩnh cửu.

Dù Chúa làm chủ lịch sử, nhưng mỗi người vẫn có tự do để lựa chọn cách sống của mình. Sự sống đời đời không phải là một món quà được trao tặng cách vô điều kiện, mà là kết quả của sự tỉnh thức và chuẩn bị.

Chúa Giêsu đưa ra hai thái độ sống trái ngược nhau:

Những ai gắn bó với thế giới cũ: Họ chìm đắm trong danh lợi thú, bị trói buộc bởi những giá trị tạm bợ, và cuối cùng sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới này.

Những ai chuẩn bị cho thế giới mới: Họ sống tỉnh thức, biết vượt qua những cám dỗ và vươn lên những giá trị cao cả. Họ sẽ được đón nhận vào vương quốc của Chúa, nơi sự sống viên mãn và bất diệt.

Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng để chuẩn bị cho ngày Chúa đến, chúng ta cần có hai điều: tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không chỉ là sự cảnh giác, mà là một thái độ sống chủ động và trách nhiệm. Tỉnh thức đòi hỏi chúng ta:

Không “chè chén say sưa”: Không bị lôi kéo bởi những đam mê và hưởng thụ vô độ.

Không “lo lắng sự đời”: Không để mình bị giam hãm trong những lo toan danh, lợi, thú.

Biết vươn lên: Tâm hồn hướng về những giá trị cao cả và đời sống vĩnh cửu.

Người tỉnh thức là người luôn ý thức rằng mỗi giây phút hiện tại đều là cơ hội để gieo hạt giống tốt lành cho đời sống mai sau. Họ sống trong thế giới này nhưng không bị thế giới này làm chủ.

Cầu nguyện là sức mạnh để chúng ta có thể tỉnh thức. Khi cầu nguyện, chúng ta kết nối với Thiên Chúa, tìm thấy sức mạnh để vượt qua những ràng buộc của thế giới vật chất và hướng tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Cầu nguyện còn là cách để chúng ta xin ơn Chúa trợ giúp. Con người yếu đuối và dễ sa ngã, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có thể chiến thắng mọi cám dỗ và sống trong sự tỉnh thức.

Trong ngày hôm nay: Mỗi ngày là một cơ hội để gặp gỡ Chúa qua lời cầu nguyện, việc làm tốt lành, và sự hiện diện của Chúa trong tha nhân.

Trong ngày lễ Giáng Sinh: Tỉnh thức giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa đến, không chỉ như một sự kiện lịch sử, mà là một sự hiện diện sống động trong đời sống hiện tại.

Trong ngày cùng tận: Cuối cùng, sự tỉnh thức sẽ đưa chúng ta vào thế giới mới, nơi chúng ta được sống hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa.

Tỉnh thức và cầu nguyện là chìa khóa để mỗi người Kitô hữu chuẩn bị tâm hồn cho ngày Chúa đến. Thế giới hiện tại sẽ qua đi, nhưng thế giới mới với Chúa sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng ta hãy sống mỗi ngày với niềm hy vọng và lòng khao khát, để khi Chúa đến, chúng ta có thể “đứng thẳng và ngẩng cao đầu,” đón nhận Ngài với niềm vui và bình an.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống tỉnh thức và cầu nguyện, biết chuẩn bị cho thế giới mới qua từng hành động nhỏ trong đời sống hằng ngày. Xin cho chúng con luôn đặt niềm tin nơi Chúa, để khi Ngài đến, chúng con được cùng Ngài bước vào vương quốc hạnh phúc đời đời. Amen.

Lm. Anmai, CSsR 2024

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, năm C-2021.
Gr 33,14-16; 1Tx 3,12-4,2; Lc 21,25-28.34-36.
TỈNH THỨC
          Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người.
          Chúa đòi hỏi chúng ta, những kẻ đi theo Người, phải luôn tỉnh thức, phải trở thành những môn đệ đầy cảnh giác, đầy tin tưởng, phải là những kẻ đi theo Người luôn xanh tươi mãi mãi. Chúng ta là những chứng nhân của Người trong thế giới này. Không phải là quá đáng, khi tuyên bố rằng chúng ta phải thận trọng quan sát khắp cả thế giới. Chúng ta phải làm chứng cho sự sống và niềm hy vọng giữa cảnh đổ vỡ, biến động và chết chóc.
          Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
          Khi làm chứng cho chân lý, công bằng, yêu thương và an bình, là chúng ta đang làm chứng cho Đức Giêsu. Cách thế làm chứng cho chân lý phải là sống trọn vẹn cho chân lý. Cách thế làm chứng cho lẽ công bằng là phải hành động một cách công bằng. Cách thế làm chứng cho tình yêu thương là phải có những hành động đầy yêu thương. Và cách thế làm chứng cho hòa bình là phải sống trong sự bình an đối với người khác.

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.
          Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời?
          Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
          Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
          Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.
          Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
          Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.
          Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
          Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

Huệ Minh 2021

Thứ Ba
THÁNH AN-RÊ, TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Rm 10,9-18; Mt 4,18-22.
GIÀU TÌNH BẠN NHƯ ANDRE
          Anrê, tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Thánh nhân là con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm người đánh cá và tài sản không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người nghèo được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth.
          Một số bản văn ngụy thư nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Hắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, ngài ăn chay 5 ngày.
          Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói: “Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi, vì được chết giống Thầy Chí Thánh của tôi”. Viên tổng trấn nổi giận truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết.
          Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính và nói: “Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu ta mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã dùng ngươi mà cứu chuộc ta”. Dịu dàng, Anrê giang tay ra, ngài bị cột bằng dây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt kéo dài hai ngày và người ta còn nghe ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo dây cho ngài. Họ nói: “Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quý của Thiên Chúa”.
          Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi Thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp Thầy, trong Thầy mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô”. Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
          Tương truyền rằng việc thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV, người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
          Truyền thống cho biết rằng Thánh Anrê tử đạo tại Patras (Hy Lạp) bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá hình chữ X, quen gọi là “Thập Giá Thánh Anrê”. Còn người em là Thánh Phêrô thì xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy Giêsu.
          Như chúng ta thấy, ở đây là tinh thần Kitô giáo rất sâu sắc, không coi Thập Giá là cực hình nhục nhã mà là phương tiện đến với Đấng Cứu Độ, để hạt lúa mì nảy sinh. Bài học quan trọng: Thập giá của cuộc đời chúng ta sẽ đạt được giá trị nếu chúng ta vui vẻ chấp nhận đó là một phần của Thập Giá Đức Kitô, và coi đó là Ánh Sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên chúng ta.
          Thánh Anrê là mẫu gương người công chính mới này. Quả vậy, Anrê nghe theo lời giới thiệu của Thầy mình là thánh Gioan Tẩy giả đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 29-35). Trong cuộc gặp gỡ này, ngài đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Nhờ niềm tin này mà ngài đã bỏ mọi sự để đi theo Chúa và làm tông đồ của Chúa trong nhóm Mười Hai (Ga 1, 35-42).
          Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ đầu tiên làm môn đệ, trong đó có thánh Anrê chúng ta mừng kính hôm nay. Người gọi các ông ngay trên đường đi dọc theo biển hồ, khi họ đang quăng chài, vá lưới. Lời mời gọi thật giản đơn, với tương lai được đổi nghề lưới cá thành “lưới người”. Các ông đáp lại thật mau mắn và ngay tức khắc. Họ sẵn sàng bỏ lại nghề đang gắn bó, bỏ lại cha để đi theo Người.
          Chúa Giêsu chọn và gọi các ông là những kẻ làm nghề lưới cá. Người vẫn muốn họ dùng chính kinh nghiệm lưới cá của mình để quăng những mẻ lưới mới như Thiên Chúa muốn. Mẻ lưới tình thương, mẻ lưới cứu độ. Người gọi các ông đi theo và ở với Người, ở bên Người, cùng ăn uống ngủ nghỉ, được nghe Người giảng dạy mỗi ngày, được chứng kiến bao nhiêu phép lạ nhãn tiền. Người còn đưa các ông vào cuộc tử nạn để các ông “thấy” mọi gian nan thử thách cho đến khi Thầy sống lại. Các ông được “tắm rửa” trong Máu Con Chiên và trở nên con người mới can đảm, khác hẳn con người cũ trước kia.
          Ngày hôm nay chúng con không được Chúa gọi trực tiếp như các môn đệ xưa, nhưng là gián tiếp qua trung gian người khác và trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn, dù chúng con là ai hay làm nghề nghiệp gì. Khi Người gọi các môn đệ không phải để các ông tự xoay xở làm lấy, mà chính Người, “tôi sẽ làm cho các ông”. Chúng con hôm nay thường bị cám dỗ tự lo cho mình, trang bị kiến thức, xếp đặt chương trình... trước không để Chúa lo, nên nhìn vào khả năng riêng thấy sợ mà chối.
          Nhưng nếu chúng con mau mắn đáp lời mời gọi, đến “ở với Người và trong Người”. Một khi có Chúa ở cùng, chúng con được hạnh phúc sung mãn, được nếm cảm Nước Trời ngay tại thế. Niềm vui hoan lạc Nước Trời tỏa ra nơi những chứng nhân, nên hấp dẫn và thu hút được nhiều người khác. Như thế Chúa cũng làm cho chúng con trở thành những kẻ “lưới người” như các môn đệ.    
          Đặt Tin Mừng này trong ngày lễ mừng kính thánh Anrê tông đồ, phụng vụ muốn chúng ta nhận thức rằng: “Thánh Anrê là một trong nhóm Mười Hai tông đồ của Chúa, ngài đã nghe nói, được giới thiệu về Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, nên ngài đã hoàn toàn dấn thân và dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong đời sống và sứ vụ Tông đồ”.
          Thánh Anrê quả là vị Tông đồ giàu tình bạn và ngài đã quảng đại và vị tha chia sẻ Chúa Giêsu cho người khác, chứng tỏ Anrê là người khiêm nhường, người làm công cho kẻ khác, là người ẩn mình để kẻ khác lớn lên, là người giữ vai phụ cho người khác và ông sẵn sàng bị quên lãng. Trong cánh đồng truyền giáo để mở rộng Nước Chúa, Chúa Giêsu cần những người như Anrê. Bạn có sẵn lòng làm công việc như Anrê để rao giảng Tin Mừng không ?
          Qua con người và công việc của thánh Anrê, chúng ta cảm nhận rằng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành. Những người tuy tài năng chỉ “một nén” nhưng sống làm chứng và ra đi kể lại câu chuyện “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
          Những cuộc gặp gỡ nhau để chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa, những hoạt động Tông đồ truyền giáo khắp nơi đang diễn ra trên thế giới… phải chăng là những công việc của thánh Anrê mà chúng ta mừng kính hôm nay ?
          Ước gì lời chúng ta tung hô trong mỗi thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến” được thực hiện nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta theo tinh thần của thánh Anrê: vị Tông đồ giàu tình bạn.

Huệ Minh 2021

 

Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng.
Mt 15, 29-37
Hóa Bánh Ra Nhiều
          Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: "Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài". Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
          Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
          Với câu 29, thánh sử nêu rõ bối cảnh và nhân vật: “ Chúa Giêsu đến ven Biển Hồ, lên núi và ngồi…”. Trong Kinh Thánh, biển cả tượng trưng là nơi chốn của ma quỉ và sự ác, còn núi là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Hình ảnh Chúa Giêsu hiện lên trong 2 thái cực đối lập như muốn nói: Ngài đến ở giữa con người, sống trong bối cảnh thiện, ác lẫn lộn và chính Ngài sẽ điều khiển trật tự này qua hành động “ ngồi xuống” với tư cách của một vị Thầy hướng dẫn con người tìm về nẻo chính đường ngay, trong hoàn cảnh môi trường mình đang sống.
          Câu 30 và 31 nói về một đám đông gồm toàn những con người bệnh hoàn tật nguyền : “ …què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân…”. Đây là nổi khổ đau của con người phải gánh chịu dưới ách thống trị của tội lỗi, ma quỉ và xác thịt. Họ kéo đến với Chúa Giêsu chỉ mong được chữa lành để có cuộc sống an bình, hạnh phúc. Chúa Giêsu không đành lòng trước nổi khổ đau của nhân loại. Ngài đã giơ tay cứu vớt và chữa lành mọi bệnh hoạn.
          Đây chính là sứ vụ Mêsia của Ngài. “Ta đến để cứu những người tội lỗi”. (Mt 9,13) Vì theo người Do Thái hồi đó, bệnh hoạn là do tội lỗi gây nên. Còn đám đông sau khi được chữa lành, họ rất đỗi kinh ngạc… và tôn vinh Thiên Chúa. “ Một đám đông” khiến chúng ta nghĩ đến tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa đem đến cho nhân loại, cho các dân tộc trên thế giới. Đó cũng là sứ vụ của Giáo Hội sau này: Hãy đi loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất ( x.Mt 16,15). Và Thiên Chúa của Israel cũng là Thiên Chúa của mọi người, mọi thời đại.
          Câu 32, mạch văn chuyển sang đề tài mới còn được gọi là phép lạ hóa bánh. Lý do Chúa Giêsu làm phép lạ này, đó là Ngài “chạnh lòng thương”. Tình thương của Thiên Chúa luôn là khởi điểm cho mọi sáng kiến và công việc của Ngài.  Ngài không những “chạnh lòng” mà còn muốn các môn đệ cũng có tâm tình như vậy, nên Ngài đã nói “vì họ ở với thầy đã 3 ngày mà không có gì để ăn. Thầy không muốn giải tán… Sợ họ bị xỉu dọc đường”. Qua câu nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu rất “người”. Ngài có một tâm tình của một vị chủ chăn, đúng hơn của một người mẹ biết rõ con mình đang đói khát.
          Các môn đệ tuy hiểu, nhưng hoàn cảnh không cho phép “ trong nơi hoang vắng, chúng con lấy đau ra đủ bánh cho cả đám đông…” ( c.33). Ý nói : chúng con không có khả năng. Thực tế, nhiều khi chúng ta thường nói : con muốn lắm, nhưng không thể, vì đó vượt sức… Tình thương của chúng ta chưa đủ mạnh, chưa đủ lớn để… vượt qua thử  thách. Lúc này, Thiên Chúa sẽ hành động : Anh em có mấy chiếc bánh?  Dạ bảy chiếc và ít cá nhỏ ( c.34). Chỉ cần có thế, chỉ cần một chút cái “ nhỏ xíu” của chúng ta mà Thiên Chúa làm nên một phép lạ. Ngài muốn chúng ta đóng góp cái phần “ Nhỏ xíu” ấy vào công cuộc cứu độ của Ngài.
          Từ câu 35-37: Phép lạ được diễn ra, Chúa Giêsu nhờ các môn đệ là người trung gian phân phát bánh cho dân và dân chúng được thỏa thuê. Hình ảnh này khiến  chúng ta nghĩ đến những hiệu quả của các bí tích, mà Thiên Chúa đã dùng tay các thừa tác viên mà ban ơn lành cho dân.Một phép lạ hiển hiện rõ ràng. Với bảy chiếc bánh nay thu được bảy thúng bánh vụn còn dư, trong khi đó 4.000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no nê. Trong sứ vụ loan báo tin Mừng cũng vậy, nhièu khi Thiên Chúa chỉ  mượn đôi chân, bàn tay,  miệng lưỡi của chúng ta, để Ngài nuôi dưỡng dân Ngài, Có lúc chúng ta thấy mình không đủ sức, bất tài vô dụng nhưng chính lúc đó sức mạnh và tình thương Chúa mới đưa đến kết quả tốt đẹp.
          Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
          Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch... Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
          Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
          Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
          Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
          Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
          Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.

Huệ Minh 2021

 

Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng.
Mt 7, 21.24-27
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
          Tin Mừng hôm nay là phần kết của loạt Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu cho thấy đạo lý của Người là suối nguồn duy nhất mang lại sự sống vĩnh cửu cho con người. Điều này còn khẳng định ngoài Chúa Giêsu , chúng ta không tìm đâu được hạnh phúc thật. Và để minh chứng cho việc thực hành lời Chúa, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh rất quen thuộc với mọi người như việc xây cất một ngôi nhà. Người khôn ngoan xây nhà mình trên nền đá vững chắc. Còn người khờ dại không biết tiên liệu thời tiết xây nhà trên nền cát nên nhà bị hủy hoại khi gặp mưa gió giông bão. 
          Với lối nói so sánh bằng hình ảnh cụ thể, Chúa Giêsu cho chúng ta ý thức tính quyết liệt của việc thực hành Lời Chúa, đó là con đường duy nhất để được sống. Trái lại nếu không thực thi lời Chúa, chúng ta sẽ bị hư mất và rơi vào hố thẳm của sự chết.
          Thực hành Lời Chúa cũng chính là sống đức tin. Thật vậy, người ta sống được là nhờ đức tin. Mà chỉ tin thôi thì chưa đủ, đức tin phải dẫn người ta đến hành động, nghĩa là sống theo những lời Chúa đã khuyên dạy. Xác tín về điều này, thánh Giacôbê tông đồ đã khẳng định: "Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu được người ấy chăng? Đức tin không việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 14).
          Nếu Chúa đòi ta phải thực hành hết mọi Lời Ngài dạy, thì chẳng ai có thể được cứu độ, vì nhiều khi một câu Lời Chúa mà ta sống chưa trọn vẹn. Và như thế càng học nhiều Lời Chúa thì càng run sợ, càng thất vọng! Nhưng đối với Chúa, ai biết sám hối tội và trông cậy vào lòng Chúa thương xót, thì đã đủ được Ngài cứu độ, vì nhờ Lời Chúa phát sinh lòng sám hối tội, cũng là cách thực hành Lời Chúa. 
          Thật vậy, hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, ông Biệt phái đứng gần Cung Thánh khoe công đức với Chúa, ông tự hào về nhân đức trổi vượt hơn người thu thuế đứng cuối Nhà Thờ, còn ông thu thuế biết mình là kẻ có tội, nên chỉ cúi sâu đấm ngực xin Chúa xót thương, nhờ vậy ông này được Đức Giêsu xác nhận : “Người này ra về được công chính” (Lc 18,9-14).
          Bởi thế, theo Tin Mừng Luca : Hai tên trộm cùng bị đóng đinh vào thập giá bên Chúa Giêsu nơi đồi Sọ. Một tên nhạo báng Chúa Giêsu, còn anh kia nhận biết hình phạt bị đóng đinh xứng với tội mình, rồi anh kêu cầu Chúa Giêsu  thương xót và xin theo Ngài vào Thiên Đàng. Ngay lúc ấy Chúa Giêsu nói : “Hôm nay anh vào Thiên Đàng với tôi” (Lc 23, 39-43).
          Vậy biết sám hối tội và xin Chúa thương xót là hành động tốt nhất Chúa đòi buộc ai cũng phải có, để không thua anh trộm lành.

          Chuyện kể rằng, một người thanh niên nọ tự hào có một niềm tin bất diệt thì sẽ được sống hạnh phúc bên Chúa. Ngày nọ, cơn lũ ập về càn quét thị trấn nơi anh đang ở. Nước dâng lên mênh mông, trong khi mọi người hối hả di dời đến nơi an toàn thì anh vẫn tự nhủ rằng: “Chúa sẽ cứu tôi. Tôi tin Ngài”. Càng lúc nước càng dâng cao, khi nước lên tới ngang vai thì có một đội cứu hộ bơi thuyền đến cứu, nhưng anh không chịu lên thuyền và ở lại với niềm tin rằng “Chúa sẽ cứu tôi. Tôi tin Ngài”.
          Cơn lũ càng lúc càng dữ dội, nước nhấn chìm mọi vật, anh ta phải trèo lên mái nhà. Một chiếc trực thăng đến cứu nhưng anh vẫn từ chối và nói “Chúa sẽ cứu tôi. Tôi tin Ngài”. Thuyết phục một hồi không xong nên chiếc trực thăng bỏ đi và người thanh niên bị lũ cuốn chết. Khi lên tới thiên đàng, anh thanh niên trách móc Chúa và nói: “Lạy Chúa, con đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, nhưng Ngài ở đâu khi con gặp hoạn nạn? Chúa liền ôn tồn nói: “Thế ngươi nghĩ ai đã mang thuyền cứu hộ và trực thăng đến cứu ngươi?”
          Thái độ tin của anh thanh niên như một lời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta. Đôi khi chúng ta cũng sống đạo một cách máy móc, đức tin của chúng ta chưa bén rễ sâu trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ tuyên xưng trên môi miệng nhưng không thể hiện ra bằng việc làm cụ thể. Chúng ta sống thụ động khoanh tay ngồi đợi Chúa làm phép lạ.
          Giáo Hội cho chúng ta biết đức tin là một ân ban đến từ Thiên Chúa chứ không do con người thủ đắc. Thế nhưng tin luôn là mối tương giao hai chiều giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa yêu thương mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho chúng ta, nhưng đón nhận và sống mầu nhiệm ấy hay không điều đó phụ thuộc vào sự tự do của mỗi người.
          Ví như căn phòng luôn đóng kín cửa sẽ không nhận được ánh nắng ấm áp của buổi bình minh. Như một hồ nước nhỏ không mở ra đón nhận dòng thủy triều mỗi ngày, nó sẽ trở thành ao tù. Cũng vậy nếu không mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, đời sống đạo của chúng ta sẽ trở nên cằn cỗi, không đủ sức vượt qua những gian nan thử thách. Thực hành Lời Chúa còn là cách chúng ta thể hiện lòng yêu mến, là lúc chúng ta được “ở lại” trong Chúa thân thiết gần gũi như người yêu ở lại trong người mình yêu.
          Thực hành lời Chúa không phải là điều dễ, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cuộc sống, phải từ bỏ chính mình, có khi phải chịu nhiều hy sinh, mất mát. Cuộc sống xã hội đang từng ngày thayđổi, vì thế Giáo Hội luôn trăn trở để tìm ra cách thế hữu hiệu nhất để loan báo Tin Mừng sao cho đời sống đạo có chiều sâu vững vàng và phải bén rễ vào Đức Kitô, nếu không chúng ta sẽ bị đánh bật bởi những cái mới, trào lưu sống “hời hợt, ào ào, vội vã” mà đánh mất căn tính của mình.
          Vì thế chúng ta luôn được mời gọi tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. Đồng thời mỗi ngày chúng ta cũng phải hun đúc niềm tin ấy bằng lòng yêu mến, nỗ lực cộng tác với ơn thánh hầu sống trọn những lời Chúa dạy.

Huệ Minh 2021

 

Thứ Sáu Tuần I Mùa Vọng.
THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê, LINH MỤC, QUAN THẦY CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO, lễ kính.
Mc 16, 15-20
NHIỆT TÂM LOAN BÁO TIN MỪNG
          Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được tuyên thánh trong thời gian gần đây theo thể thức “tuyên thánh tương đương”. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyola.
          Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì."
          Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
          Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
          Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
          Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
          Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
          Năm 1619, Đức Phaolô V đã suy tôn ngài lên bậc chân phước. Năm 1622, Đức Grêgôriô XV suy tôn lên bậc hiển thánh, tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô và đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
          Chúa Giêsu, Đấng cứu độ và khai sinh Hội Thánh, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng, trước khi về trời Ngài cũng để lại cho Giáo Hội và cho chúng ta, cho cả nhân loại một kho tàng quý báu lớn lao, đó là lời chân lý, lời hằng sống, lời ban sự sống đời đời, các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, và lời trối trăn rất quý báu và quan trọng là “chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. “Thầy đã rửa chân cho chúng con, thì chúng con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Giáo Hội rất trân trọng quý mến, bảo vệ và rao giảng để cho kho tàng và lời trối trăn của Chúa được mọi người đón nhận, thi hành để đạt được ơn cứu độ như Đức Kitô mong muốn.
          Việc Chúa Giêsu phục sinh và lên trời không chấm dứt việc phổ biến Tin Mừng, nhưng Tin Mừng được các tông đồ tiếp nối Chúa Giêsu đi khắp thế gian công bố cho mọi loài thọ tạo (Mc 16, 15; 13, 10; 14,9). Đó là công tác tông đồ và truyền giáo của toàn thể Hội Thánh  thực hiện cách kiên trì bền bỉ trải qua mọi thời đại, và cho đến muôn đời. Như vậy, biến cố thăng thiên kết thúc sứ vụ của Chúa Giêsu ở trần thế, và khởi đầu sứ vụ của các tông đồ “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị kết án”.
          Chúa Giêsu xuống thế làm người, đòi buộc con người một sự chọn lựa. Không ai có thể có sự sống siêu nhiên mà không nhờ Chúa Giêsu, Giáo Hội chỉ truyền đạt sự sống này qua các bí tích, trước hết là bí tích Thánh tẩy, vì Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất chứ không như người Do Thái lầm tưởng là ơn cứu độ nhờ lề luật. Các tông đồ ra đi rao giảng tin mừng, làm chứng về Đức Giêsu Kitô và có Chúa cùng hoạt động với các tông đồ như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”, và dùng những dấu lạ kèm theo để xác nhận lời họ rao giảng. Chúa Giêsu kể ra một loạt dấu lạ: họ sẽ trừ được quỷ, nói được tiếng lạ và chữa nhiều bệnh nhân. Chúa ban cho họ có quyền năng trên rắn rết, bò cạp và nếu có uống nhằm thuộc độc cũng chẳng sao, chẳng có gì làm hại được họ ( Mc 15, 17; Lc 10, 19 ).
          Không những Chúa ban cho các tông đồ các dấu lạ ấy, mà còn cho những người có lòng tin vào danh Ngài và nối tiếp về sau sứ vụ của các tông đồ nữa. Các dấu lạ ấy còn chỉ rõ cho chúng ta biết là chúng ta đang sống trong triều đại của Đức Messia, là thời đại của ơn cứu độ.
          Sau khi Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ tiếp tục sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng cho muôn dân muôn nước, Chúa Giêsu được đưa lên trời trước mặt các ông cách hữu hình, như Ngài đã nói với các thành viên trong Thượng Hội Đồng “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng” ( Mc 14, 62 ). Biến cố thăng thiên không phải là một cuộc ra đi của Chúa Giêsu, nhưng là khai mạc một cách thế hiện diện mới mẻ của Ngài, hiện diện vô hình và không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa.
          Lời Tin Mừng hôm nay nhắc đến biến cố về trời của Đức Giêsu để tôn vinh Ngài đã hoàn thành công trình cứu độ, suy tôn Ngài là Chúa, là chủ tể mọi trong mọi trong hoàn vũ. Chúa Giêsu còn được tôn vinh bằng hình ảnh ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Ngài có tất cả vinh quang danh dự nơi Thiên Chúa Cha, Ngài dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa Cha như Ngài đã nói với các tông đồ trong bữa tiệc ly về việc “Ngài ra đi khỏi thế gian mà về cùng Cha Ngài”, và trong lời cầu nguyện của Ngài gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài “vậy lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha, xin ban cho Con vinh quang mà Con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” ( Ga 17, 5 ). Chính việc biến hình trên núi Tabor là một hình thức thăng thiên vô hình, và tiên báo vinh quang mà Chúa Giêsu ‘Con Thiên Chúa Làm Người’ sẽ được nhận lại nơi Cha.
          Mừng lễ kính Thánh Phanxicô Xaviê hôm nay, chúng ta mang tâm tình kính phục Ngài có một tấm lòng hăng say phục vụ Hội Thánh. Chúng ta cảm tạ Ngài đã để lại cho chúng ta kho tàng lòng nhiệt thành loan Tin Mừng. Chúng ta cũng ngưỡng mộ Ngài là một mẫu gương nhiệt thành đi theo Chúa Giêsu, và nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Noi gương Thánh Phanxicô Xaviê, chúng ta tích cực cộng tác với Giáo Hội trong mọi công tác tông đồ truyền giáo. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho anh chị em mình, vì chúng ta là những Kitô hữu, là thành phần của Hội Thánh.
          Trong khi rao giảng Tin Mừng chúng ta cũng cần có các dấu lạ để minh chứng lời chúng ta rao giảng, như các tông đồ đã làm xưa là sống một cuộc sống huynh đệ thân thương, nhẹ nhàng nhân ái với mọi người, hiền lành dịu ngọt, xả kỷ lo cho nhu cầu quyền lợi của người khác, hăng say, can đảm chấp nhận gian khổ, những dấu lạ ấy cũng là những lời chứng hùng hồn về Chúa Giêsu về Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Tình Yêu. Chúng ta cũng noi gương các tông đồ từ bỏ con người cũ và sống con người mới tốt hơn.

Huệ Minh 2021

Thứ Bảy Tuần I Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gioan thành Đa-mát, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Mt 9, 35 10,1.6-8
YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ
          Lễ nhớ thánh Jean Damascène được mừng vào ngày Giáo Hội Byzantin cử hành lễ an táng ngài, diễn ra trong tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem, có lẽ là ngày 4 tháng 12 năm 750. Lễ nhớ này được đưa vào lịch Rôma năm 1890. Trước cuộc cải cách phụng vụ, lễ này được mừng ngày 27 tháng 3, là ngày kỷ niệm Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên phong thánh Jean Damascène làm tiến sĩ Hội Thánh.
          Ngài sinh ở Đamas khoảng năm 650, trong một gia đình Ả Rập theo Kitô giáo. Ngài còn có tên là Mansour giống như tên ông nội ngài, một viên chức cao cấp trong triều đình. Khi cha mất, ngài thay cha trông coi công việc tài chính của hoàng cung. Nhưng đến năm 710, ngài lui về sống đời đan tu trong tu viện Thánh Sabas, một loại tu viện – pháo đài nằm giữa Bethlehem và Giêrusalem.
          Được thụ phong linh mục do giáo chủ Giêrusalem là Đức Gioan V, từ đó ngài chỉ chuyên chăm cầu nguyện, rao giảng và viết các tác phẩm thần học, cho tới khi ngài đột ngột qua đời tại tu viện Thánh Sabas khoảng năm 750, hưởng thọ khoảng một trăm tuổi. Ít năm sau, công đồng bài trừ ảnh tượng (iconoclaste) năm 754 ra vạ tuyệt thông cho ngài, nhưng về sau ngài sẽ được phục hồi ở Công đồng chung thứ bảy, năm 787.
          Công lao to lớn của thánh Jean Damascène là đã bảo vệ việc tôn kính ảnh tượng chống lại hoàng đế Byzantin là Lêô III người Isaurien (717-740), là người đã liên minh với phe bài bác ảnh tượng thánh để phát động cuộc tranh luận về Ảnh tượng thánh (726). Ngài cũng đã anh dũng đối đầu với hoàng tử kế vị Lêô III là Constantinô V. Ba Luận văn Hộ giáo (726-730) của ngài là một sự biện hộ hùng hồn cho việc tôn kính ảnh tượng và chứng tỏ cho thế giới Kitô giáo thấy tài năng của một nhà thần học và nhà hộ giáo lỗi lạc.
          Nhưng tác phẩm chính của thánh nhân là Ngọn Nguồn Tri Thức, một tổng luận thần học đầu tiên. Vào thời Trung cổ, tác phẩm này được dùng làm sách giáo khoa ở phương Đông, còn ở phương Tây, tác phẩm này được dịch sang tiếng la-tinh đã giúp ích rất nhiều cho công việc của thánh Thomas Aquin và các nhà thần học kinh viện.
          Thánh Jean Damascène được mệnh danh là Chrysorrhoas (nghĩa là Giòng Sông vàng) vì những thiên khiếu phi thường của ngài về thần học và thi thơ, “óng ánh như vàng, rực chiếu trong lời giảng dạy cũng như trong đời sống của ngài.”
          Khoa tranh ảnh thánh vẽ hình thánh nhân được Đức Mẹ chữa lành bàn tay phải mà hoàng đế bài bác ảnh thánh Lêô III – theo truyền thuyết – đã chặt đứt của ngài.
           Suốt dọc dài theo năm tháng qua dòng thời gian, ngay từ thời Cựu ước các Ngôn sứ đã loan báo về Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện và người ta hằng mong chờ Vị Cứu Chúa đến giải thoát dân. Khi Đấng Cứu Thế đến với muôn dân, Ngài đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ tội lỗi, thiết lập triều đại Thiên Chúa và chuẩn bị cho nhóm Tông đồ thân cận tiếp tục cộng tác vào công cuộc Người đang thực hiện. Cứ thế Tin mừng được loan truyền khắp cùng cõi đất và cho đến ngày nay Tin mừng đó được lan rộng. Lời Chúa trong Tin mừng của Thánh Mattheu hôm nay thuật lại việc Chúa trao ban sứ vụ của Ngài cho các Tông đồ, để các ngài tiếp tục loan truyền tin vui cho nhân loại.
          Sau khi rao giảng khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong khắp các hội đường và làm nhiều phép lạ, chữa nhiều người đau yếu, tật nguyền… Đức Giê-su thấy đám đông dân chúng vất vưởng, không người hướng dẫn, Ngài đã biểu lộ tình thương của mình đối với họ bằng việc ân cần giảng dạy và chữa lành cho họ ; đồng thời Ngài cũng nhận thấy họ cần có những mục tử tốt lành để hướng dẫn họ. Trước nhu cầu đó, Ngài gọi nhóm mười hai ban cho các ông quyền trừ quỷ, chữa bệnh và sai các ông đến với họ, đồng hành và hướng dẫn họ.
          Đây cũng là lời mời gọi mà Chúa Giêsu muốn chúng ta tham dự vào sứ mạng đem Tin mừng đến cho mọi người.
          Khi trao cho các Tông đồ sứ mạng chăm sóc đàn chiên thì chính Chúa Giê-su đã nêu gương trước trong việc làm này. Ngài không nề hà đến với từng người bằng việc giảng dạy, Ngài yêu thương cúi xuống trên họ để chữa lành, trừ quỷ cho họ. Sau đó, Ngài mời gọi các Tông đồ cộng tác với Ngài trong việc chăm sóc đàn chiên, giảng dạy cho họ cũng như chữa lành cho họ. Ngài trao cho các ông nhiệm vụ rao giảng Nước trời và để việc loan báo có hiệu quả thì Ngài cũng ban cho họ khả năng: “Được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.  
          Lãnh nhận năng quyền từ Chúa Giêsu, các ông được sai đến với: “Các con chiên lạc nhà Ít-ra-el” đi đến với các dân ngoại, rao giảng về một Nước Trời đang đến gần. Hơn nữa, Chúa Giêsu hướng dẫn, chỉ bảo các ông khi tiếp nối công việc của Ngài, để việc rao giảng của các Tông đồ đạt hiệu quả thì khi làm việc cần có tấm lòng nhân hậu của người mục tử: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy”.  
          Chúa Giêsu đã đến trần gian, khai mở triều đại Thiên Chúa, quy tụ mọi người vào trong vương quốc của ngài. Ngài muốn mọi người tiếp tục công việc này nên Ngài trao ban sứ vụ không chỉ cho riêng các Tông đồ mà ngài còn mời gọi tất cả chúng ta nỗ lực xây dựng vương quốc của triều đại này ngày càng lớn mạnh. Ngài mời gọi mọi người giới thiệu chân dung của một Thiên Chúa đầy lòng yêu thương, để mọi người nhận biết sự hiện diện yêu thương và tốt lành của Thiên Chúa. Ngài ước mong không một ai bị loại ra khỏi Nước Trời là nơi vinh quang Chúa hiển trị. Ngài muốn chúng ta cùng chia sẻ sứ vụ rao giảng cho mọi người, quảng đại phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu đã quảng đại và dành nhiều ưu ái cho những kẻ bé mọn thì chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối nên giống Chúa trong việc phục vụ tha nhân.
          Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam công bố ngày 01/05/2011 giúp chúng ta nhìn ra phương thức mới, cũng như biên cương mới của sứ vụ thần linh này trong việc nên giống Chúa và cũng là lời đáp trả cho lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc biệt đến những dân tộc ít người là những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Các bệnh nhân, những người tàn tật, già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ.
          Các cộng đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm vui của đức …”. Chúng ta cũng được mời gọi: “Nhận ra những hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội để kịp thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Việc đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội học được cách nhìn của Đức Kitô, khám phá nơi con người nhu cầu cần được yêu thương và tôn trọng chứ không chỉ là được ban phát của cải vật chất” (Số 41, Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2011)
          Sứ mạng mà Chúa Giêsu  trao ban cho các Tông đồ xưa kia cũng chính là lời mời gọi mỗi người chúng ta trong cuộc sống hôm nay. Trước những nhu cầu của anh chị em trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, những người ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức lời mời gọi của Chúa để luôn nhiệt thành với việc giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính đời sống của mình.

Huệ Minh 2021

Chúa Nhật Tuần I Mùa Vọng Năm C-2018-C

 BÀI ĐỌC I: Gr 33, 14-16; 1 Tx 3, 12 - 4, 2; Lc 21, 25-28, 34-36

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN

Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.

Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.

Ta bắt đầu bước vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng để rồi ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha.

Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết", như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ "chờ đợi" được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: "Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi", và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: "Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống".

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.

 Câu đáng lưu ý trong Tin Mừng là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. "Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã viết: "Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria "Hãy đừng sợ", và cũng đã nói với Giuse "Hãy đừng sợ". Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: "Hãy đừng sợ". Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: "Hãy đừng sợ" đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.

Muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian.

Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề". Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Hãy Tỉnh Thức đừng để "lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.

Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.

Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.

          Ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: "Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến".

Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ "Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta  trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm" (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng.

Chúa Nhật Mùa Vọng I Năm C
Gr 33, 14-16; 1 Tx 3, 12 - 4, 2; Lc 21, 25-28, 34-36
TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI


Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng : Mùa của chờ đợi và hy vọng.

Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.

Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.

Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.

Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông : Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài? 

Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ: 
Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ. 

Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin. 
Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.

Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.

Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.

Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. 

Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.

Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.

Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.

Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.

Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.

Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.

Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.

Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.

Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.

Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.

Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.

Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.

Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.


Huệ Minh

 

Thứ Ba tuần I MV

Lc 10, 21-24

SỐNG ĐƠN SƠ ĐỂ GẶP CHÚA

          “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…”: Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.

          Và rồi, ta thấy lời tán tụng của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức tin. Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha vì đã giấu không cho những hạng khôn ngoan thông thái biết những điều đó, tức là ơn đức tin, mà Ngài lại mạc khải cho những kẻ bé mọn, khiêm nhu.

          Ta cũng thấy khi nói đến hạng khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và Luật sĩ, những người có học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo giáo ấy khiến họ cho mình là người nắm giữ chân lý, là người đạo đức và có đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huênh hoang tự đắc ấy.

          Chúa Giêsu đến trần gian để thực hiện điều Thiên Chúa đã hứa từ xưa. Đó là đem ơn cứu độ cho con người (Tt 2,11). Chúa Giêsu đi khắp các thành, các làng để kêu gọi dân chúng sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).

          Trước lời rao giảng của Đức Giêsu, nhóm Pharisêu và các kinh sư đã khước từ, còn những người bé mọn lại đón nhận. Giới lãnh đạo Do thái cậy vào sự hiểu biết của mình nên khép lòng trước lời mời gọi của Chúa Giêsu và từ khước Ngài. Đối lại, những người bé mọn với đầy sự tín thác, khiêm tốn nên đã mở rộng cõi lòng đón nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu hoan hỷ cảm tạ Chúa Cha về ơn phúc trọng đại mà Cha đã dành cho những người đơn sơ chân thành.        

          "Những người bé mọn" mà Chúa Cha tuyển chọn để mặc khải là chính các môn đệ ; và chính khi chúng ta biết khiêm tốn trở thành môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sẽ là "những kẻ bé mọn" mà Chúa Cha ưa thích. Bởi vì, chính Đức Giêsu cũng trở nên "bé mọn" ở giữa chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, trong mầu nhiệm Thánh Thể và trong mầu nhiệm Thương Khó ; và Chúa Cha nói về Người : "Đây là Con ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người".

          Chọn những người đơn sơ, thất học làm môn đệ, Chúa Giêsu còn kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài muốn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng trong nước Ngài không có sự phân biệt đối xử, không nhất thiết là người thông thái mới có thể trở thành môn đệ của Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để trở nên môn đệ Ngài, điều kiện thiết yếu là trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy nghĩ hẹp hòi của mình.

          Đức Giêsu đều nói về mặc khải (trái với mặc khải là dấu kín) và hệ quả của mặc khải : "Cha đã dấu kín…, nhưng lại mặc khải… " ; "và những kẻ Người Con muốn mặc khải cho" ; "phúc thay mắt nào được thấy", "muốn nghe điều anh em nghe". Nhưng Chúa Cha và Người Con mặc khải những gì, để cho các môn đệ, là "những người bé mọn" thấy và nghe ? Điều các môn đệ thấy và nghe là chính Đức Giêsu : Đức Giêsu là mặc khải của Chúa Cha và cũng chính Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha cho những người bé mọn.

          Sống đơn sơ là bước căn bản để gặp được Thiên Chúa, Đấng là nguồn bình an và hạnh phúc. Do vậy, người Kitô hữu được mời gọi sống đơn sơ khiêm tốn với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Sống khiêm tốn trước nhan Chúa như người con đến với Cha trong sự phó thác và tin tưởng trọn vẹn, như người con với tâm nguyện duy nhất là yêu mến Cha và quyết sống đẹp lòng Ngài. Sống đơn sơ với tha nhân qua việc thể hiện sự gần gũi và chân thành với mọi người. Và sống đơn sơ với bản thân khi rèn luyện để có lương tâm ngay chính và tâm hồn trong sạch. Có như thế, ta sẽ luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Vì quả thật, Thiên Chúa chẳng bỏ rơi những ai khiêm tốn cậy trông nơi Ngài (Tv 9,11).

          Đức Giêsu là mặc khải lớn nhất của Chúa Cha và Chúa Cha là mặc khải lớn nhất của Đức Giêsu cho các môn đệ, là "những người bé mọn". Vì thế, được "thấy và nghe" Người là một mối phúc. Phúc cho các môn đệ đang vây quanh Đức Giêsu, và cũng phúc cho chúng ta hôm nay, bởi vì chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày nhận ra, lắng nghe, hiểu biết, yêu mến và đi theo Người. Bởi vì, Người hiện diện và lên tiếng trong sáng tạo, trong lịch sử nhân loại và lịch sử đời tôi, và một cách trọn vẹn nơi Lời Kinh Thánh, Bánh Thánh Thể, được hoàn tất nơi mầu nhiệm Vượt Qua.

          Quả thực, người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được ánh sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì mà thế gian cho là điên dại.

          Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ tha thứ cho kẻ thù của mình, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.

          Niềm vui của Thiên Chúa là những kẻ bé mọn được biết Ngài. Nói cách khác, đối tượng của mặc khải là những người bé mọn. Đó là quyết ý của Chúa Cha. Chỉ họ mới là người được đón nhận mạc khải, bởi họ đã khiêm nhường lắng nghe và đón nhận lời loan báo của Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Chúa Giêsu đã ngợi khen, và làm đẹp lòng Chúa Cha khi công bố Tin mừng cho kẻ bé mọn. Toàn bộ sứ mạng của Ngài ở trần gian là thực hiện ước muốn ấy. Ngài đã vui mừng làm tròn sứ mạng được giao phó. Đồng thời, Ngài cũng chia sẻ và mời gọi các môn đệ tham gia vào sứ mạng mạc khải Thiên Chúa cho những người bé mọn. Các môn đệ ngay khi ấy đã lên đường loan báo Tin mừng và vui mừng trở về trình bày những hoa trái thu lượm được.

          Muốn đón nhận ơn Chúa, cũng như muốn hiểu biết Thiên Chúa hơn thì chúng ta phải trở nên những kẻ bé mọn, phải ý thức mình còn kém. Và bé mọn thực sự, khiêm tốn thực sự là phải biết đón nhận, đón nhận không những từ nơi Chúa, mà còn phải từ anh em của mình nữa.

 

Thứ Tư Tuần I MV

BÀI ĐỌC I: Is 25, 6-10a; Mt 15, 29-37

LÒNG CHẠNH THƯƠNG

Chúa Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi“chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi. Chúa Giêsu được bao vây bởi những người cùng khốn. Họ đến với Ngài để tìm nguồn an ủi, và họ đã không phải thất vọng, bởi Ngài thấu hiểu và chạnh lòng thương trước nỗi đau của họ.

Hình ảnh mà Tin Mừng khắc hoạ lại đó không chỉ mô tả một Đức Kitô hiền lành và nhân hậu đậm tính nhân văn. Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và đem lại cho họ sự no thỏa vì Ngài là Đấng Emmanuel, là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

Hành động xót thương của Ngôi Hai Thiên Chúa được thực thi bởi hai hàng động cụ thể, đó là: chữa mọi bệnh hoạt tật nguyền cho dân và cho dân chúng ăn uống no nê. Chúa Giê-su thi hành hai hành động này vì Ngài động lòng trắc ẩn trước nỗi lầm than của nhân sinh cũng như  cho họ hưởng nếm vinh quang Nước Trời ngay tại trần thế này bằng chính những động thái cụ thể như “được nhìn thấy, được đụng chạm, được di chuyển, được nói lên điều mình cảm biết để rồi họ biết ca tụng, tôn vinh tình thương bất tận của Thiên Chúa” (Mt 15, 29-31).

Ta thấy không những Chúa Giêsu cho “những chúng sinh hữu hạn” này được khai thông về thần thái, tinh thần mà Ngài còn cho họ được đồng bàn, được no thỏa thể xác trong bữa tiệc Thánh Thể (Mt 15, 32-36) vì Ngài chính là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để trở thành của ăn của uống nuôi sống muôn dân, ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ không phải chết nhưng sống đời đời (Ga 6, 53-58).

Quả vậy, không những Chúa Giêsu chữa lành chúng ta về thể lý hữu hạn mà Ngài còn dưỡng nuôi chúng ta bằng chính thân thể của Ngài trong mỗi cử hành Thánh Thể, nơi bàn tiệc Lời Chúa và trong các Thánh Lễ hàng ngày. Tất cả là vì xót thương chúng ta.

Sau ba ngày làm việc dù đã rất mệt mỏi, nhưng với tấm lòng mục tử chân chính, Đức Giêsu vẫn nhạy bén nhận ra sự khó khăn mà đám đông sẽ gặp phải nếu Người giải tán họ lúc này. Người biết mình sẽ phải làm gì để nâng đỡ họ. Trước khi thực hiện, Người lên tiếng khơi gợi với mong muốn nhận được sự đồng cảm, chung tay của các môn đệ. Thế nhưng, đổi lại Người chỉ nhận được nơi các ông câu trả lời với ý thoái thác, né tránh “chúng con lấy đâu ra ngần ấy bánh để cho họ ăn?”. Có thể sự mệt mỏi và bản tính ngại khó của phàm nhân đã làm cho các ông cảm thấy bất lực, và quên mất rằng Ai đang nói chuyện với mình, quên mất cảm giác quen thuộc đã từng xảy ra cùng với kết quả mỹ mãn mà Thầy mình đã làm.

Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đám đông này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.

Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: “Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường”. Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5.000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.

Chúa Giêsu luôn luôn để lại cho con người của ăn ban sức lực. Ngài tụ họp người ta lại để cho họ ăn bánh hằng sống. Ngài luôn cho con người chính mình Ngài trước khi Ngài lên đường. Và Ngài vẫn còn đến với con người, ban cho con người bánh làm thỏa mãn vĩnh viễn sự đói khát của linh hồn và sức mạnh để chúng ta có thể đi trọn những ngày của đời sống.

Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Cuộc sống này đòi hỏi chúng ta nhiều khi phải can đảm đi ngược lại với những gì thế gian cho là đúng. Bước vào mùa Vọng, mùa của niềm hy vọng và chuẩn bị đón mừng Con Thiên Chúa Nhập Thể làm Người đem ơn cứu độ.

Lòng xót thương của Thiên Chúa vẫn ngày ngày tuôn trào, trải rộng trên con cái của Người và trong mọi môi trường của cuộc sống. Hình ảnh những nữ tu âm thầm giúp đỡ người phong cùi, việc làm của các bạn trẻ thiện nguyện nơi anh em đồng bào cho đến những hành động âm thầm nhưng đầy tình yêu của những người làm công tác “bảo vệ sự sống”... Tất cả tuy rất lặng lẽ nhưng lại nói lên sức mạnh, tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn vượt thắng những yếu đuối, giới hạn và lầm lạc của con người, đồng thời thúc giục, mời gọi con cái của Người luôn xót thương lẫn nhau và cùng nhau tiến về nhà Cha là Đấng Giàu Lòng Thương Xót.

Ngày nay, còn có nhiều người nghèo, nhiều người đói khổ, vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta, từng người một, khi nhận lãnh Bánh của Chúa, thì cũng biết chạnh lòng thương và chia sẻ cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống mọi người trên thế giới.

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng biết sống cách xứng hợp để mang lại niềm vui và hy vọng cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang phải sống trong cảnh nghèo khó, đau thương và cô quạnh. Chắc chắn những nỗ lực sống tốt trong ơn thánh Chúa của chúng ta, cũng sẽ dễ dàng trở nên gương sáng cho những người đang sống trong sự vô cảm, lệch lạc lương tâm biết nhận ra đâu là ý nghĩa đích thực của“Tình Yêu”.

 

Thứ Năm Tuần I MV

Is 26, 1-6; Mt 7, 21. 24-27

NGHE VÀ THỰC HÀNH

Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.

          Câu chuyện Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu lên án những kẻ miệng lúc nào cũng “lạy Chúa, lạy Chúa” mà không sống theo Lời người dạy; thậm chí còn có những lối sống giả hình, gian tham, ích kỷ, vụ lợi, độc ác. Những kẻ ấy rồi cũng có lúc người ta nhận ra được bộ mặt thật của họ và tránh xa; và Đức Giê-su nói họ chẳng được vào nước trời: “Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta". 

Thật vậy, có những kẻ tham gia rất nhiều đoàn hội, làm giáo lý viên, làm tông đồ, giảng dạy giáo lý, lời Chúa mà có lối sống hoàn toàn phản chứng; họ làm việc vì danh, vì theo phong trào, vì ham vui… nên có ai đụng đến họ là họ tự ái, để lòng thù ghét và thậm chí có kẻ còn bỏ đạo. Chung qui họ làm vì bản thân họ chứ chẳng phải vì mến Chúa, yêu người gì cả.

Và  rất nhiều Kitô hữu giữ đạo kiểu ‘đạo nhà thờ’; họ giam Chúa trong nhà thờ, vì vậy khi ra khỏi nhà thờ, về gia đình, trở về với những sinh hoạt thường ngày là họ không còn thấy Chúa nữa. Do đó, những cuộc họp mặt hàn huyên của họ thường là để bù khú hoặc nói hành nói xấu người vắng mặt; họ chấp nhặt, kèn cựa với người khác từng li từng tí, đạp lên người khác để mình tiến lên; thu gom, tích cóp quyền lợi cho mình mà không biết sẻ chia; thích làm bạn với người giàu có, quyền hành mà coi khinh anh chị em nghèo khó….

Còn có những bậc cha mẹ đã không cầu nguyện, không dạy con biết cầu nguyện, nhưng lại dạy cho con cái biết nói dối và chửi bới người khác, hơn nữa lại dạy cho con từ nhỏ đã biết dùng sức mạnh thú tính để đàn áp người khác với lý do ‘không để cho chúng nó bắt nạt mình’; hoặc không dạy cho con biết mến Chúa yêu người mà lại dạy con trộm cắp điêu ngoa, thế nhưng nó mà nói dối mình thì lại chửi bới đánh đập không thương tiếc – họ đã không sống Lời Chúa lại làm gương mù cho con cái….

Chúa cũng nhắc nhớ mỗi người chúng ta nếu chỉ nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành thì cũng như hạt giống gieo trên vệ đường, trên sỏi đá, sẽ không trổ sinh hoa trái (Lc 8, 5–7), lời Chúa sẽ chết đi trong mảnh đất tâm hồn chúng ta. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu” (Mt 7, 21a), nhưng để lời Chúa trổ sinh hoa trái, để được lãnh nhận phần thưởng là Nước Trời Chúa hứa ban thì phải thi hành ý muốn của Chúa Cha: “chỉ ai thì hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21b). Chúa còn khẳng định rằng ai nghe và thực hành lời Chúa thì được ví như người khôn xây nhà trên nền đá ( Mt 7,24), còn ai nghe qua rồi để đó thì ví như người ngu dại xây nhà trên nền cát (Mt 7,26). Công trình mà nền móng không vững chắc thì sẽ chẳng thể đứng vững.

Chúa nói không phải kẻ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà vào được nước trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Lý do Chúa nói câu này có lẽ vì lúc đó có những người theo Chúa chỉ vì lợi lộc riêng, vì cho rằng Chúa sẽ làm vua bách chiến bách thắng. Còn họ sẽ được một số chức tước bổng lộc vua ban. Bên ngoài họ không khác gì những môn đệ của Chúa. Nhưng Chúa biết họ không thật. Đó là một lời cảnh báo Chúa dành riêng cho họ. Nhưng cũng là lời thức tỉnh chúng ta nữa.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa để được vào nước trời như người khôn ngoan xây nhà trên đá tảng. Lời Chúa là sự sống và là tình yêu. Khi yêu thương là chúng ta thực hành Lời Chúa. Khi yêu thương, chúng ta làm nảy sinh sự sống dồi dào và sung mãn. Lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời, chúng ta sẽ không lo sợ đi lạc đường. Bám chắc vào Lời Chúa, chúng ta sẽ đứng vững trước mọi xu hướng và cơn lốc của thời đại, đứng vững trước mọi bách hại, mọi cám dỗ để trung thành với niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa – Đấng xót thương. Hơn nữa người khôn ngoan xây dựng gia đình mình, xây dựng tâm hồn mình trên nền tảng Lời Chúa thì họ cũng như gia đình họ sẽ được bảo toàn và đứng vững trước mọi thử thách, tránh được những đổ vỡ đáng tiếc mà con người thời nay hay mắc phải.

Người môn đệ chân chính của Ðức Giêsu là con người say mê học hỏi và thực thi lời Chúa. Chỉ khi thực thi lời Chúa con người mới tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Chỉ khi thực thi lời Chúa niềm tin được vững mạnh và đưa con người đến hạnh phúc vĩnh cửu.

Ý muốn của Thiên Chúa rất cao siêu huyền nhiệm và thường được gọi là "Thánh ý". Thiên Chúa chỉ muốn những điều tốt lành cho con người, như bản chất của Ngài là tốt lành. Vì ý muốn của Chúa là muốn cho con người làm điều thiện để họ được hạnh phúc, nên mỗi khi chúng ta làm những điều tốt lành là chúng ta thực thi ý Chúa.

Trong việc thực hành Thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có một mẫu gương hoàn hảo: đó là Đức Giêsu. Tác giả thư gửi tín hữu Philipphê đã giúp chúng ta chiêm ngắn dung mạo của Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể: Người tuy là thân phận Thiên Chúa mà chấp nhận mọi thiệt thòi, tự hủy mình ra không, mang lấy thân phận nô lệ và chết trên thập giá. Đức Giêsu hạ mình giống như con người phàm trần để sống gần gũi thân thiện với chúng ta, cảm thông và chia sẻ với chúng ta những buồn vui của kiếp người. 

"Lạy Chúa, xin dạy con biết Thánh ý Chúa!". Đó là một trong những lời cầu nguyện đơn sơ và ý nghĩa nhất. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: "Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (Kinh Lạy Cha). Khi chuyên tâm làm việc thiện là chúng ta góp phần làm cho ý Chúa được thể hiện, nhờ đó, vinh quang Chúa được chiếu tỏa trong cuộc đời và hạnh phúc được lan rộng giữa thế gian.

07/12/2018

Thứ Sáu Tuần I MV

Is 29, 17-24; Mt 9, 27-31

XIN CHỮA LÀNH CHO CON

Không ai lại muốn con mắt của mình bị mù. Có nó, ta nhìn được cảnh vật sắc màu chung quanh. Thế mà chúng ta lại sợ thứ ánh sáng soi rõ con người thực của ta mà lắm khi ta muốn giấu giếm. Hễ ai, kể cả Chúa, đụng chạm đến hay phanh phui, ta thường phản ứng hệt như lũ gián chạy trốn ánh sáng.

Vì thế, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành con mắt xác thịt cho những người mù. Ngài còn muốn ban cho họ cặp mắt mới, cặp mắt đức tin. Từ nay, họ vừa thấy cuộc đời bằng con mắt tự nhiên, lại vừa nhận ra ý nghĩa cuộc đời bằng con mắt đức tin; nhận ra trong đời mình có Chúa đồng hành; và nhất là dám đáp trả với Chúa: “Thưa Ngài, chúng tôi tin” để được thấy.

Tin Mừng trong trình thuật Chúa chữa hai người mù hôm nay là sự tiếp nối những chỉ dẫn cụ thể trên khi mời gọi tín hữu noi gương hai người mù: hoàn toàn trông cậy, hoàn toàn tín thác vào Tình yêu toàn năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa làm người, Con vua Đavít.

Hai người mù không thấy đường đi nhưng vẫn theo bước Đấng họ tin rằng Ngài giàu lòng xót thương và có khả năng chữa họ sáng mắt. Đức Giêsu nhìn thấy lòng tin ấy qua những bước chân xiêu vẹo và tiếng kêu đầy tín thác, nhưng Ngài vẫn cần ở họ lời tuyên tín nơi cửa miệng trước khi được ban ơn (Rm 10, 10). Hai người mù đã tuyên xưng niềm tin, và họ không phải chờ đợi lâu: họ đã thấy điều họ tin.

Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27), họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai. “Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa. Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô. Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ : “Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28). Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài, Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29). Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31). 

Họ chỉ có một khao khát là thấy được những gì mà chúng ta đang thấy. Sự ao ước nhìn thấy ánh sáng và vạn vật xung quanh cuộc sống của họ được miêu tả qua việc khi nghe thấy danh Đức Giêsu và biết được những phép lạ mà Người đã làm, thì ngay lập tức họ đã đi theo Người để kêu lên: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi.” (Mt 9, 27). Hai người mù này mặc dù bị mù về mặt thể lý, nhưng con mắt đức tin của họ thì thật sáng ngời. Cũng chính vì họ có lòng tin mạnh như vậy nên phép lạ đã trổ sinh và “Mắt họ liền mở ra” (Mt 9, 30).

Đức tin của hai người mù là yếu tố then chốt để họ được chữa khỏi cảnh mù lòa vốn kéo ghì cuộc sống của họ, đẩy họ ra bên lề xã hội. Thế nhưng họ tin gì? Trong tình thế éo le của mình, hai người mù chắc phải tin rằng Chúa Giêsu có quyền năng để thực hiện điều họ mong ước, tức là chữa họ khỏi mù lòa. Qua cách trình bày của thánh Matthêu, ta còn nhận ra họ khẩn nài và tin tưởng lòng thương xót của Chúa: “Hỡi Con vua Ðavít, xin thương chúng tôi”. Nói khác đi, lòng tin của hai người mù trước hết và trên hết là sự tin tưởng vào lòng thương xót và tình yêu vô bờ của Chúa, chứ không phải chỉ là việc tin rằng Chúa sẽ ban cho họ điều họ khấn xin.

Không khó để ta nhận ra rằng nhiều khi ta cũng mù mờ về chính mình và mùa lòa trên đường đời. Mù mờ về chính mình, nên ta khó nhận ra những khát vọng chính đáng từ sâu thẳm hồn ta, khó nghe được tiếng của Đấng đang ẩn náu nơi kín đáo nhất của tâm linh ta, vì thế mà ta khó lòng trung thành với Đấng ta đã từng tuyên xưng niềm tin vào Ngài, khó mà trả lời cho những ai cật vấn niềm tin của ta, nhất là khó đứng vững trước những trào lưu tư tưởng và xu hướng sống tuy trái ngược với niềm tin nhưng lại rất hấp dẫn và mời mọc ta. Mù lòa trên đường đời, nên ta dễ dàng chạy ngược chạy xuôi vì những điều người ta nói Đấng Kitô ở đây hay ở kia (Lc 17, 23), ta dễ dàng rơi vào tình trạng hoảng loạn vì những tin tức về ngày tận thế, điều mà chính Chúa Giêsu cũng không biết (Mt 24, 36).

Mù lòa thể xác ai cũng biết, nhưng mù lòa tâm hồn thì không dễ nhận ra. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong ánh sáng của Chúa người ta mới thực sự nhìn thấy ánh sáng. Mùa Vọng nhắc cho ta: Chúa Kitô đã đến để cứu độ ta. Tôi có đến với Chúa Giêsu để xin Người mở con mắt đức tin, xóa cảnh mù lòa để tôi thấy Chúa hiện diện trong mọi sự, để tôn vinh, cảm tạ, lắng nghe và cầu xin với Người?

Mù quáng vẫn là cơn cám dỗ khủng khiếp nhất của con người. Mù quáng chính là không còn nhận thức và chấp nhận sự mù lòa của mình. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã lên án thái độ mù quáng của Biệt Phái, họ cuộn mình trong nấm mồ tăm tối của những thành kiến và mớ kiến thức hạn hẹp của con người để khước từ ánh sáng của Thiên Chúa.

Việc cầu xin với Thiên Chúa về những nhu cầu cụ thể và tin tưởng Ngài sẽ nhận lời là điều cần thiết và tốt đẹp; nhưng nếu dừng lại ở đó thì tương quan giữa Thiên Chúa và chúng ta chỉ giống như ông chủ và đầy tớ, giữa người ban ơn và kẻ nhận ơn. Đó chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa muốn. Mối tương quan giữa Thiên Chúa và chúng ta phải là mối liên hệ cha - con, và Ngài đã làm tất cả để giúp ta sống mối tương quan này.

Do đó, Thiên Chúa muốn chúng ta cầu xin với tâm tình con thảo, tức là trước hết và trên hết tin tưởng vào lòng thương yêu vô bờ của Ngài, Đấng “sẽ ban cho con cái mình những của tốt của lành” (Lc 11, 13) dù đôi khi khác ý ta xin. Lòng tin tưởng đó đòi chúng ta phải dám từ bỏ những bậc thang giá trị của thế gian, từ bỏ những đảm bảo trần thế, từ bỏ cả chính mình để mặc lấy tâm tình của người con thơ phó thác cuộc đời mình trong bàn tay yêu thương chăm sóc của cha mẹ.

Nếu chúng ta không chữa trị bệnh mù tâm linh này cách triệt để, thì nó có thể làm cho linh hồn chúng ta sa vào lửa hỏa ngục ngàn đời. Mỗi người trong chúng ta cần tìm những liều thuốc tốt nhất để phòng chống cũng như ngăn cản căn bệnh này. Những liều thuốc đó không xa lạ gì chính là Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta hãy lắng nghe, đón nhận, rồi thấm nhuần Lời của Chúa vào trong máu thịt của chúng ta. Như thế, những con virus kiêu ngạo, tự mãn, lười biếng và những tham, sân, si sẽ không có cơ hội đột nhập vào trong con người của chúng ta được nữa.

Điều mà Chúa Giêsu muốn nơi hai người mù năm xưa cũng là điều mà Ngài muốn nơi mỗi người chúng ta hôm nay. Đó là phải biết trông cậy và đặt trọn niềm tin vào Chúa – Đấng luôn yêu thương và giàu lòng thương xót đối với chúng ta. Cái mù thể lý đã khốn khổ đến như vậy rồi, phương chi là cái mù tâm hồn còn đau đớn xót xa hơn biết bao nhiêu.

Lời của Đức Giêsu làm cho lòng tin phát sinh hiệu qủa. Là hiệu quả thế lí, nhưng lòng tin mời gọi chúng ta nhận ra và hướng về những hiệu quả vô hình, mang lại hoa trái bền vững và nhiều hơn gấp bội. Bởi vì, sự sống của chúng ta, sự sống này đây, cần ánh sáng của Đức Kitô biết bao. Và để có được “đôi mắt” nhìn thấy và đi trong ánh sáng của Đức Kitô, chúng ta chỉ cần tin thôi, như Người nói với hai người mù.

 

08/12/2018

Thứ Bảy Tuần I MV - ĐỨC TRINH NỮ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

St 3, 9-15. 20; Ep 1, 3-6. 11-12; Lc 1, 26-38

NÊN TRINH TRONG NHƯ MẸ

Vô nhiễm là một trong tứ ân đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ. Mẹ chính là thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa – Đệ Nhất Thánh Nữ với nhiều thánh hiệu được Giáo hội tôn vinh (x. Kinh Cầu Đức Bà).

Theo ngữ nghĩa “nhiễm” là “nhuộm” – nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, vương, vướng, dính – nhưng thường được dùng ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Nói ngắn gọn, “vô nhiễm” nghĩa là không bị nhiễm. Qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ) ban hành ngày 8-12-1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

“Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Trinh Nữ Maria chính là “ngay từ giây phút”  Lời Tiền Định từ Thiên Chúa. (St 3, 15) trong Cựu Ứơc. “… người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mi ...” Còn trong Tân Ứơc chính là câu : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà …” (Lc 1, 35)

Đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quí là được làm mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.

Ông bà nguyên tổ đã làm tan vỡ mối quan hệ tin tưởng và hòa hợp, cách riêng tình thương với Thiên Chúa mà chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Cũng chính vì sự ích kỷ của ông bà nguyên tổ đã đã làm cho ông bà quên rằng ông bà đã “nhận mọi sự như quà tặng nhưng không và ông bà vẫn chỉ là thụ tạo chứ không phải là Tạo Hoá.

Qua, trong và với biến cố truyền tin, sứ thần Gabriel chào Đức Maria là Đấng “đầy ơn phúc”. “Đầy ơn phúc” hay “đầy ân sủng” ở đây cho biết Đức Maria là được Thiên Chúa sủng ái cách đặc biệt và gìn giữ khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi tội tổ tông. Vô Nhiễm Nguyên Tội là đặc ân cao trọng mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Maria.

Cuộc đối thoại thứ nhất giữa sứ giả của ma quỷ (con rắn) với bà Evà trong vườn địa  đàng: Rắn nói với Eva: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Người đàn bà trả lời: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” Rắn nói: “Chẳng chết chóc gì đâu!

Thế nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” Evà nghe bùi tai, lại “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” Kết quả là: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố che thân.” (St 3, 1-7). 

Và hậu quả tất yếu đến cho ông bà Nguyên tổ: “Với người đàn bà, Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.” Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”… Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 16-19). 

Cuộc đối thoại thứ hai giữa sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần Gabriel) với Evà Mới là Đức Maria nơi thành Nazareth (miền Galilê): “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacób đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlizabéth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Kết quả là: ”Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 28-38) 

Qua lời xin vâng, ta thấy Đức Maria hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa và hướng trọn vẹn về Người nhờ sức thúc đẩy của đức tin của ngài. Ngài là “hình ảnh trọn vẹn nhất về sự tự do và giải thoát của nhân loại và vũ trụ”

Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria được quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đổ tràn.Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng Mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Đặc ân cao trọng này chính là sự thánh thiện tinh tuyền của Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).

Qua đặc ân cũng như sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được  đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.

Maria Vô Nhiễm là đại lễ của tất cả mọi người, vì Mẹ không phải là người duy nhất trên trần gian đã gắn kết cuộc đời mình cách bền chặt với Giêsu Kitô, mà cả tôi và mọi Kitô hữu cũng đã được gắn kết bền chặt qua bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Vô Nhiễm không chỉ mang nội dung thụ động ‘không vướng mắc tội nguyên tổ’ mà chứa đựng một nội dung tích cực và động hơn nhiều, đó là ‘mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ’ và ‘nỗ lực gắn kết bền chặt hơn nữa với lòng lân tuất Chúa’, điều mà Đức Kitô Giêsu đã giáng thế để mạc khải và thực hiện.

          ừng lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta được mời gọi hướng nhìn lên Mẹ, đấng tràn đầy hồng ân, được Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để trở nên Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. Người Mẹ đó, Thiên Chúa cũng đã trao ban cho chúng ta: "Này là mẹ con" (Ga 19,27). Thế nên, làm sao chúng ta có thể không chiêm ngưỡng, không yêu mến và không chạy đến cùng Đức Mẹ? Vì Đức Mẹ luôn ở bên tòa Chúa để cầu bầu cho chúng ta mỗi khi chúng ta kêu xin, khẩn nài. “Xưa nay chưa từng nghe có ai chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ chẳng nhận lời…”. Và thật đẹp biết bao, nếu chúng ta luôn thực hiện những gì Mẹ chỉ dạy: “Người bảo gì, các con hãy làm theo” (Ga 2,5).

 

November 29, 2024