SUY NIỆM MÙA VỌNG - Năm C
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG, năm C-2021.
Lc 3, 1-6
SÁM HỐI
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này.
Trước khi Chúa Giêsu đến với trần gian, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Ngài, bằng cách mời gọi mọi người sám hối, và biểu lộ lòng sám hối bằng một nghi thức bên ngoài là rửa tội. Sám hối là nhận ra những tội lỗi, khuyết tật của mình để quyết tâm sửa đổi hầu trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Nếu sám hối không dẫn đến tình trạng tốt đẹp hơn, thì sám hối đó chỉ là sám hối hời hợt, ngoài miệng… Nếu thực hiện nghi thức sám hối ở bên ngoài (như rửa tội, xưng tội…) mà trong lòng không thật tâm sám hối thì đó chỉ là việc làm lấy lệ hay giả dối.
Sám hối để đón Chúa đến không chỉ mang tính cá nhân mà còn phải mang tính xã hội nữa. Nghĩa là người thật sự sám hối không chỉ làm cho bản thân mình, tâm hồn mình nên tốt đẹp hơn, mà còn phải tìm cách làm cho tập thể, cộng đoàn hay xã hội của mình nên tốt đẹp nữa.
Việc sám hối ấy căn bản là ở trong nội tâm. Và nếu đó là sám hối thật sự thì nó phải hướng đến hành động, hay tất yếu dẫn đến hành động thật sự. Ngôn sứ Isaia mô tả sự sám hối ấy bằng những hình tượng khác nhau: «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng»
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3, 5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng.
Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta.
Tất cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Tất cả mọi kitô hữu đều có trách nhiệm biến cải giáo hội và xã hội nên tốt hơn, nghĩa là phải sửa sai, phải thay đổi những gì chưa đúng, hoặc có hại trong giáo hội và xã hội. Trong dân gian có câu: «Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh», hay «quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách» (kẻ kém cỏi nhất trong đất nước cũng có trách nhiệm về sự thịnh suy của đất nước).
Cũng thế, mọi kitô hữu dù là giáo dân hay linh mục tu sĩ, là người thất học hay trí thức đều có trách nhiệm đối với sự phát triển hay suy thoái của giáo hội và xã hội. Những kitô hữu tỏ ra vô tâm, vô tình, vô trách nhiệm đối với tha nhân, với xã hội, đất nước, thế giới, với giáo hội địa phương, cũng như với giáo hội hoàn vũ, cần phải suy xét lại thái độ vô tình ấy của mình. Rất có thể ta chưa phải là kitô hữu đích thực, chưa có đủ tình yêu đối với tha nhân, một phẩm tính căn bản của người kitô hữu.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời nói: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm…”, nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm nay: “Hãy dọn đường Chúa đến”. Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống.
Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Thật thế, điều quan trọng để đón Chúa đến là phải có tinh thần sám hối. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự chừa cải, tu sửa, cải thiện… Nói khác đi, có gì sai thì phải sửa cho đúng, xấu thì sửa cho tốt, cho đẹp, cong thì thành thẳng, gồ ghề thành phẳng, cao thì bạt xuống, thấp phải đôn lên… Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà còn trong giáo hội và xã hội.
Huệ Minh 2021
Thứ Hai Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Ni-co-la, Giám mục.
Lc 5, 17-26
QUYỀN NĂNG CHÚA Ở VỚI NGƯỜI
Nicôla là vị Thánh bổn mạng vĩ đại của các trẻ em và của việc tặng quà giáng sinh. Thánh nhân sống vào thế kỷ thứ 4. Tên ông già Nôel là một hình thức của người dân Hà Lan để gọi tên Thánh Nicôla
Nicôla là vị Thánh bổn mạng vĩ đại của các trẻ em và của việc tặng quà giáng sinh. Thánh nhân sống vào thế kỷ thứ 4. Tên ông già Nôel là một hình thức của người dân Hà Lan để gọi tên Thánh Nicôla. Vị Thánh nổi tiếng này sinh ở Tiểu Á, ngày nay là nước Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi song thân qua đời, Thánh Nicôla đã dâng hiến tất cả tiền bạc để giúp việc từ thiện.
Lần kia, có một người nghèo nọ sắp sửa bỏ rơi những đứa con gái của mình trong đời sống tội lỗi chỉ vì ông không có đủ tiền để làm đám cưới cho chúng. Thánh Nicôla nghe biết vấn đề của ông. Ban đêm Nicôla tới nhà của ông và ném một túi vàng nhỏ vào qua cửa sổ. Phần này dành cho cô gái cả! Thánh nhân đã làm y như thế cho cô gái thứ hai. Người cha biết ơn đã rình xem ai mà lại quá tốt bụng với họ như thế! Khi Thánh Nicôla đến lần thứ ba, thì ông đã nhận ra ngài. Và người cha đã rất biết ơn Nicôla.
Sau đó, Thánh Nicôla làm giám mục. Ngài rất yêu mến sự công bằng. Người ta nói rằng lần kia Thánh Nicôla đã cứu ba người đàn ông vô tội thoát khỏi cái chết. Lúc ấy, Thánh nhân quay sang nhìn kẻ buộc tội. Ngài đã làm cho anh ta phải thú nhận rằng anh ta đã được tặng một số tiền để hãm hại ba người này.
Thánh Nicôla qua đời tại Myra. Người ta đã xây cất một ngôi đền ngay trên phần mộ của ngài. Nhiều thánh đường đã được cung hiến mang danh Thánh Nicôla. Khi người ta mang các thánh tích của Nicôla tới Bari, nước Ý, thành phố này liền hóa nên một đền thờ nổi tiếng cho các khách hành hương từ khắp Âu châu đến kính viếng. Nicôla là Thánh bổn mạng của các thủy thủ, tù nhân và của các em thiếu nhi. Cùng với Thánh Anrê, Thánh Nicôla cũng được nhận là Thánh bổn mạng của nước Nga.
Chúng ta hãy học nơi Thánh Nicôla cách sống bằng quả tim quảng đại và yêu mến. Thánh nhân đã ra khỏi chính mình để giúp ích cho tha nhân. Thánh Nicôla sẽ dạy chúng ta sống như vậy nếu chúng ta thành tâm cầu xin ngài.
Thiên Chúa tình yêu vẫn luôn hiện diện sống động ngay trong thế giới hôm nay, qua mỗi con người và từng biến cố hay qua các dấu chỉ thời đại. Thế nhưng có mấy người biết nhìn ra sự hiện diện thân thương của Ngài.
Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha, Ngài đến trần gian để thi thố lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Lời giảng dạy kèm theo các phép lạ Chúa làm đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa luôn ở với Ngài.
Thánh Luca đã tường thuật cho chúng ta phép lạ Chúa chữa người bại liệt, nhờ lòng tin của những người khiêng anh ta đến với Chúa. Người bại liệt không thể tự mình làm gì được, nhưng nhờ tình thương và sự trợ giúp của người khác, anh ta đã được đến gần Chúa và được Ngài chữa lành.
Điều tuyệt vời ở đây là lòng tốt của những người khiêng anh ta: “họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người” (c. 18). Nhưng vì đám đông cản trở, nên họ đã dỡ ngói mái nhà, thả người bại liệt và cái giường xuống ngay trước mặt Đức Giêsu (c c.19).
Chính lòng tin của họ đã đụng chạm tới lòng thương xót của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã chữa lành cho người bại liệt bằng quyền năng của Ngài.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng luôn cần đến sự trợ giúp của người khác, đặc biệt trong đời sống đức tin. Những lúc ta thấy mình yếu đuối, nản chí, mất kiên nhẫn trước những thử thách trong cuộc đời. Khi đó ta rất cần đến sự nâng đỡ của những người có đức tin vững mạnh. Chính họ sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn để vững tin vào Chúa hơn.
Chúa vẫn luôn đặt bên cạnh chúng ta những người bạn tốt để nâng đỡ và hướng dẫn, giúp ta can đảm sống đức tin giữa bao gian nan thách đố của cuộc sống. Chúng ta không bao giờ được phép buông xuôi hay thất vọng, vì quyền năng và tình thương của Thiên Chúa vẫn mãi mãi hiện diện trong cuộc đời chúng ta.
Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta còn nhận ra một phản ứng ngược hẳn với lòng tin của những người khiêng bệnh nhân, là thái độ cứng lòng, bất chấp của biệt phái. Họ nghi ngờ và ghen tỵ vì thấy Chúa làm nhiều phép lạ.
Chúa Giêsu bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học: Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Có lẽ trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta cũng có những suy nghĩ và thái độ như người biệt phái, khi nhìn thấy người khác làm được nhiều điều tốt đẹp và hữu ích. Chúng ta nghi ngờ về lòng tốt và thiện chí của họ. Chúng ta ghen tỵ vì thấy họ được nhiều người cảm phục và quý mến.Điều quan trọng hơn cả là chúng ta biết giữ vững niềm tin mạnh mẽ vào quyền năng Thiên Chúa trong cuộc đời. Ngài có thể làm tất cả mọi sự tốt đẹp nhất cho chúng ta, vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúng ta hãy xác tín vào tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời mỗi người.
Huệ Minh 2021
Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng.
Thánh Am-brô-xi-ô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Mt 18, 1-14
Khiêm tốn
Thay vì mừng lễ thánh Ambroise vào ngày mất của ngài (4 tháng 4 năm 397), thường rơi vào các ngày lễ Phục sinh, Giáo Hội mừng vào ngày 7 tháng 12, là ngày kỷ niệm ngài thụ phong giám mục (394). Tại Rôma, từ thế kỷ XI, người ta đã mừng lễ ngài vào ngày này, cũng như trong các Giáo Hội Byzantin và một số nhà thờ chính toà hay tu viện thời Trung cổ. Cùng với thánh Augustin, Hiêrônimô và Grégoire, thánh Ambroise là một trong bốn thánh giáo phụ và tiến sĩ lớn của Giáo Hội la-tinh, và là một trong những vị thánh được yêu mến nhất.
Thánh Ambroise sinh tại Trèves (Augusta Trevirorum) khoảng năm 339, trong một gia đình Kitô giáo thuộc giới quí tộc Rôma, vào thời kỳ cha ngài làm pháp quan của tỉnh Gaules. Khi cha mất, mẹ của ngài về sống tại Rôma cùng với ba người con: hai trai và một gái, Marcellina, cô em gái này sẽ nhận khăn choàng trinh nữ từ tay Đức giáo hoàng Libère. Sau khi hoàn tất các môn văn chương và luật, Ambroise đã hành nghề một cách xuất sắc, đưa ngài tiến mau đến tận Milan, tại đây ngài được bổ nhiệm làm tổng trấn tỉnh Ligurie và Émilia của Rôma.
Năm 374, khi giám mục Auxence thuộc phe lạc giáo Arius qua đời, quan tổng trấn Ambroise tới nhà thờ lớn Milan để giữ trật tự vào dịp bầu tân giám mục. Nhưng, tuy mới chỉ là một dự tòng, chính ngài lại là người được chọn làm giám mục trước sự phấn khởi của toàn dân. Họ la to: “Ambroise giám mục!” Ngài miễn cưỡng chấp nhận, và tám ngày sau, ngài được rửa tội, được truyền chức và tấn phong. Lúc đó ngài khoảng ba mươi tư tuổi. Sau khi trở thành người đứng đầu Giáo Hội ở Milan, thánh Ambroise học tập thừa tác vụ đến độ ngài trở thành một trong những vị mục tử hoàn hảo nhất trong lịch sử Hội Thánh.
Việc đầu tiên ngài làm là phân phát tài sản của mình cho người nghèo và chọn một nếp sống khổ hạnh. Rồi, dưới sự hướng dẫn của một cha Simplicien, một linh mục giàu kinh nghiệm, ngài dấn thân miệt mài vào việc học Kinh Thánh và các tác giả Ki-tô giáo. Ngài học nhằm phục vụ trước hết cho việc rao giảng và thi hành tác vụ huấn giáo. Bị lôi cuốn bởi Tin Mừng Luca, ngài đã viết một bình luận về Tin Mừng này, còn truyền lại tới chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng còn giữ được một sưu tập các khảo luận của ngài về các nhân vật và chủ đề Kinh Thánh: Abel, Cain, Nôê, Abraham, Isaac, thiên đàng, tạo dựng. . .
Thánh Ambroise không ngừng quan tâm tới việc dạy giáo lý cho dân chúng, nhất là trong việc khai tâm đức tin và chuẩn bị phép rửa. Trong khảo luận Các Mầu Nhiệm và các Bí Tích, thánh giám mục Milan cắt nghĩa cho các tín hữu về các bí tích và phụng vụ. Nhưng ngài không chỉ giới hạn vào việc giảng thuyết. Nhằm giúp các tín hữu tham dự tích cực vào phụng vụ, ngài đã sáng tạo ra nhạc bình dân – thể loại đầu tiên ở phương Tây – và ngài đưa các bài hát xen vào các thánh vịnh. Cũng vậy, ngài soạn ra các thánh thi và các ca vãn, và một số sáng tác của ngài ngày nay vẫn còn được dùng để cầu nguyện hay hát trong phụng vụ thuộc nghi lễ Ambroise ở giáo phận Milan.
Trong một xã hội mà Kitô giáo chưa thấm nhuần hoàn toàn, thánh Ambroise quan tâm canh tân các phong tục với mục đích Kitô hoá chúng; ngài cống hiến cho phương Tây khảo luận đầu tiên về đạo đức học Kitô giáo (De Officiis), lấy hứng chủ yếu từ Cicéron. Nhiều khảo luận bàn về đề tài trinh khiết, trong đó có một tác phẩm ngài viết cho em gái ngài là Marcellina, lúc đó đã qui tụ được một số chị em thành một cộng đoàn trinh nữ. Một tiểu luận khác ngài viết cho các bà góa.
Viết đã giỏi, ngài còn là nhà hùng biện lỗi lạc; chính nhờ ngài mà chàng thanh niên Augustin ở Tagaste đã hoàn tất hành trình hoán cải của mình. Cuối đời, bị suy yếu và biết giờ chết sắp tới, ngài đọc cho người ta viết bình luận về thánh vịnh 43 (44). Ở câu 24, ngài nói: “Thật khó khăn khi phải kéo lê lâu dài một thân xác mà bóng tử thần đã che phủ. Lạy Chúa, xin đứng lên. Tại sao Người vẫn ngủ? Người sẽ xua đuổi con mãi sao?” Sự vĩ đại và thánh thiện của thánh Ambroise được diễn tả trong tiếng kêu la cuối cùng này, mà Chúa đã nghe vào một ngày thứ sáu tuần thánh, 4 tháng 4 năm 397.
Suốt ba năm đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ cũng có cao vọng muốn được trở thành người lớn nhất trong Nước Trời nên đã đặt câu hỏi với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”.Hiểu được tâm tư ấy, Chúa Giêsu liền dạy các ông một bài học thật ý nghĩa đó là “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”.
Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh rất cụ thể đó là trở nên khiêm tốn đơn sơ như trẻ thơ. Khiêm tốn là một đức tính cao quý của con người. Người người có tâm hồn trẻ thơ thì tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa,khiêm tốn không cậy dựa sức riêng nhưng biết nhìn nhận những giới hạn của mình.
Thiên Chúa dựng nên mỗi người một vẻ khác nhau, chính sự khác biệt đó càng diễn tả quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa.Hình dáng bên ngoài của một người dù đẹp hay xấu, cao hay thấp, trắng hay đen...đối với Chúa không có gì là xấu.Điều quan trọng nằm ở tâm hồn và thái độ sống của mỗi người. Dù nhỏ bé xấu xí nghèo hèn đến đâu, con người đều có phẩm giá và nhân vị vì họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nhận biết được điều này, chúng ta được mời gọi phải tôn trọng người khác với tất cả sự khác biệt của họ.
Ông Gerandy, nhà tư tưởng người Mỹ đã từng nói: “Chúng ta cần giống nhau một chút để hiểu nhau, nhưng cần phải khác nhau một chút để yêu thương nhau”. Chính sự khác biệt nơi mỗi người mà chúng ta được chia sẻ đắp đổi cho nhau, cùng cộng hưởng làm cho cuộc sống thêm phong phú và ý nghĩa.
Giá trị của cuộc sống không căn cứ trên số đo chiều cao của một người, chất lượng của cuộc sống không tính bằng sự hơn thua về nhan sắc hay hình thức bên ngoài nhưng dựa vào thái độ chúng ta đối xử với mọi người. Chúng ta không sống như một ốc đảo nhưng là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta không thể tự thỏa mãn với chính mình nhưng luôn cần sự chia sẻ, nâng đỡ và an ủi của người khác. Người kiêu căng tự cho mình là đầy đủ nên Thiên Chúa không thể ban thêm điều gì, trái lại người khiêm tốn như một chiếc ly còn trống rỗng sẽ dễ dàng đón nhận được nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đặc biệt yêu thích người có tâm hồn khiêm tốn. Chúa sẽ không mạc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái biết về mầu nhiệm Nước Trời nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải đón nhận người khác như đón nhận chính Chúa, vì “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13,20).
Vì thế mỗi người chúng ta cũng đừng tự mãn cho mình là người có đầy đủ mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Trái lại chúng ta là một thụ tạo với đầy khuyết điểm và tính hư nết xấu. Mang trong mình di chứng của tội nguyên tổ, chúng ta luôn bị cám dỗ chiều theo sự xấu. Nhận ra điều này để chúng ta biết cậy nhờ vào ơn Chúa giúp mà hoàn thiện chính mình.
Và để minh chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn đưa ra một ví dụ về người chủ chăn đã bỏ 99 con chiên mà đi tìm một con chiên lạc. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính nhưng là kêu gọi người tội lỗi.
Ai khiêm tốn nhận mình là yếu hèn tội lỗi thì Thiên Chúa càng ban ơn giúp sức. Thánh Phaolô tông đồ có nhiều kinh nghiệm về điều này, thánh nhân đã khiêm tốn nhận mình là tôi tớ yếu đuối chẳng có gì để vênh vang.Chúng ta có là gì thì cũng nhờ bởi ơn Chúa. Còn thánh Augustinô thì xác quyết: “Chúa là Đấng cao cả, nếu con hạ mình xuống, Người cũng hạ mình xuống kết hợp với con; nhưng nếu con nâng mình lên, Người sẽ tránh xa con”.
Huệ Minh 2021
Thứ Tư Tuần II Mùa Vọng.
ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI, lễ trọng.8 tháng 12 năm 2021
Lc 1, 26-28
MẸ TINH TUYỀN
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã thực hiện hai công trình tuyệt tác và vĩ đại nhất đó là: Công trình tạo dựng muôn loài và công trình cứu chuộc nhân loại. Trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dọn cho hai ông bà nguyên tổ một địa đàng sán lạn huy hoàng, tràn trề hạnh phúc. Nhưng vì phạm tội ông bà đã phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng rồi kế hoạch yêu thương nữa lại bắt đầu với lời tuyên phạt con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. (St 3, 15).
Rồi trong những trang Kinh thánh suốt mấy nghìn năm đã thấp thoáng hiện lên những người nữ “hơn các phụ nữ” (Tl 5, 15), “Người thiếu nữ mang thai, sinh hạ một con trai…” (Is 7, 14). Đến hôm nay sau bao ngàn năm chuẩn bị, người “nữ” đích thực mà Thiên Chúa kén chọn đã tỏ hiện: Đức Trinh Nữ Maria. Để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với nhân loại, cung lòng người Trinh Nữ phải trở nên thiên đàng, một “địa đàng mới” không cỏ dại, không bẩn bụi, không một vết “rắn” bò, để cho Chúa Cứu Thế ngự trị.
Vậy giờ đã đến thời viên mãn, sứ thần Gaprien đã được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng”. Lời chào thăm, chúc mừng và truyền lệnh yêu thương của Thiên Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Sứ thần nhắc lại câu nói của ngôn sứ Isaia trước đấy mấy trăm năm về Chúa Cứu Thế. Nhưng với lòng khiêm nhường, thật thà, đơn sơ, trong trắng và ý chí tự do của người Trinh Nữ, sứ điệp ấy chưa dễ dàng được chấp nhận. Vì Trinh Nữ như yêu đời sống trinh khiết hơn là được làm mẹ Chúa Cứu Thế. Sứ thần phải mất thêm thời gian, lời đôi co trao đổi qua lại nhiều nữa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa… Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được”.
Rồi Trinh Nữ Maria đã nhận lời: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Là Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã không ra mệnh lệnh, cưỡng bức thực thi ý Chúa, mà tôn trọng sự tự do mà Chúa đã ban cho con người. Sứ thần đã làm cho Mẹ thật sự nhận ra thánh ý Chúa để Mẹ tự nguyện “xin vâng”. Sự tự nguyện ấy mẹ đã suốt đời chiêm niệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” mà quyết tâm thực thi ý Chúa. Mẹ Maria đã tự coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người, và làm mẹ của cả loài người chúng ta.
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu – Con Một Người. Để Mẹ được xứng đáng với thiên chức đó hơn, Mẹ đã được Người ban cho đặc ân “vô nhiễm nguyên tội”. Nhờ đó, Mẹ đã không bị truyền tội tổ tông do Adam và Eva gây ra ngày trước. Tuy nhiên, việc lãnh nhận đặc ân đó không phải ngẫu nhiên mà chính là nhờ hai tiếng “xin vâng”. Chính sự vâng phục Thiên Chúa đã đưa Mẹ rời khỏi hàng tội nhân của tội nguyên tổ và trở thành người diễm phúc nhất trong tất cả phụ nữ.
Quả thật, Mẹ đã tin tưởng hết lòng và vâng phục Thiên Chúa. Niềm tin ấy đã thôi thúc Mẹ nói lên lời “xin vâng” để tuân theo ý Người một cách tuyệt đối. Tuy nghe có vẻ dễ dàng, nhưng nếu thử đặt mình vào hoàn cảnh của Mẹ lúc bấy giờ, ta sẽ thấy niềm tin và sự vâng phục ấy to lớn đến mức nào. Ngày nay, việc có con trước hôn nhân không còn là việc quá khủng khiếp như xưa. Giới trẻ có thể thoải mái chiều theo ý muốn của mình mà không bị lên án nghiêm trọng (miễn là vẫn giữ và dưỡng dục đứa con nên người).
Tuy nhiên, vào thời bấy giờ lại không như thế. Một người phụ nữ có con trước khi chính thức về nhà chồng nếu bị phát hiện sẽ bị ném đá đến chết. Không chỉ vậy, họ còn để lại tai tiếng cho gia đình nếu việc đó xảy đến. Do đó, để chấp nhận thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ đã phải phó thác mọi sự trong tay Người.
Mẹ Maria là mẫu gương để chúng ta học tập. Mẹ đã tin tưởng và vâng phục suốt cả cuộc đời, đã đồng hành cùng Chúa Giêsu cho đến phút cuối cùng và tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh của Người. Do đó, ngoài việc noi gương Mẹ, ta cũng không quên chạy đến với Mẹ trong những giây phút khó khăn của cuộc sống. Tình yêu của Mẹ sẽ chở che và đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Đặc biệt, ta phải ghi nhớ rằng: tin tưởng và vâng phục là chìa khóa quan trọng cần phải có để ta có thể sống đẹp lòng Chúa.
Mỗi người chúng ta cần phải biết noi gương Mẹ. Dù cuộc sống có nhiều đau thương, khó khăn, dù hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa, ta cũng vẫn phải tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Mọi thánh giá Người để ta vác đều không vượt quá sức của ta, Người biết điều đó và Người tin ta sẽ đủ khả năng gánh vác. Khó khăn, đau khổ là điều không thể thiếu của đời người, quan trọng là ta đối mặt với nó như thế nào.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.
Huệ Minh 2021
Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng 2021.
(Tr) Thánh Gio-an Đi-ê-gô (Juan Diego).
Mt 11, 11-15
DỌN ĐƯỜNG
Chính nhờ Juan Điêgô mà Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên đã mạc khải chính mình cho thế giới với tước hiệu Đức Mẹ Guađalup. Juan Điêgô sống vào thế kỷ thứ 16 khi Mêxicô lúc ấy chỉ được biết đến với cái tên Thung Lũng Anahuac. Juan Điêgô thuộc gốc người Chichimeca, và có tên gọi là “con Đại Bàng biết nói.” Juan Điêgô là tên thánh của ngài.
Vào ngày 12 tháng Mười Hai, ngày lễ kính Đức Mẹ Guađalup, (chúng ta có thể đọc cuốn sách Các sự kiện lạ lùng về việc Đức Mẹ hiện ra với Juan Điêgô), khi nhiệm vụ đặc biệt của Juan hoàn tất, người ta nói rằng ngài đã đi tu làm ẩn sĩ. Juan dùng phần đời còn lại của mình để cầu nguyện và sám hối. Túp lều nhỏ của Juan nằm gần bên ngôi đền thờ đầu tiên được xây trên ngọn đồi Têpêyac. Juan rất được dân chúng quý trọng. Các bậc cha mẹ đều coi đó như niềm ao ước lớn nhất của họ nếu con cái họ cũng sống như Juan Điêgô.
Juan trông coi ngôi đền nhỏ và chào đón những khánh hành hương tới kính viếng Đức Mẹ Guađalup. Ngài chỉ cho họ xem tilma, hay còn gọi là tấm áo choàng kỳ diệu, có in hình Đức Mẹ.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong Juan Điêgô lên bậc chân phước ngày 6 tháng Năm năm 1990. Đức thánh cha đã thân hành đến viếng ngôi thánh đường nguy nga dâng kính Đức Mẹ Guađalup. Ở đó, đức thánh cha đã cầu nguyện cho tất cả mọi người dân Mêxicô, cách riêng cho những người bị giết chết trong cuộc bách hại Giáo hội khủng khiếp vào nửa đầu thế kỷ thứ 20. Ngài cũng cầu nguyện cho hết thảy các khách hành hương đến viếng ngôi thánh đường xinh đẹp này với niềm tin vào Mẹ Thiên Chúa. Juan Điêgô được đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh hôm 31 tháng Bảy năm 2002.
Thánh Juan Điêgô là một người rất nhạy cảm và hay cầu nguyện. Lối sống của thánh nhân đã giúp người khác nhận ra tình thương của Thiên Chúa đối với dân Người trong bức ảnh Guađalup kỳ diệu
Đôi khi sự vâng lời đơn sơ là tất cả những gì làm trung gian chúng ta và sức mạnh tuyệt vời của Thiên Chúa.
Sự thật này được chứng minh rõ rệt trong cuộc đời của Thánh Gioan Điêgô, người Ấn Độ da đỏ ở Mêxicô, lòng trung thành của thánh nhân đã thay đổi tiến trình lịch sử.
Vào tháng 12 năm 1531, Đức Trinh Nữ Maria đã xuất hiện với Gioan Điêgô trên đồi Tepeyac gần Thành phố Mêxicô ngày nay và yêu cầu Gioan Điêgô mang một thông điệp đến cho giám mục địa phương, tên là Juan de Zumarraga. Mẹ muốn xây dựng một nhà nguyện trên đồi Tepeyac, nơi Mẹ sẽ lắng nghe tiếng khóc của mọi người và sẽ giúp đỡ họ trong những nỗi buồn phiền, những nhu cầu cần thiết và trong những nỗi bất hạnh của họ”. Một cuộc hoán cải mới đối với Đạo Công Giáo, nên Gioan Điêgô lập tức vâng lời Đức Mẹ và đi đến Zumarraga. Nhưng vị giám mục đã không coi trọng Gioan Điêgô. Khi Đức Maria yêu cầu Gioan Điêgô quay trở lại, ngài thưa với Mẹ hãy sai ai đó biết ăn nói hùng hồn hơn. Nhưng Đức Maria khăng khăng nói: “Có nhiều người Mẹ có thể sai đi. Nhưng con là người Mẹ đã chọn.
Gioan ngoan ngoãn trở lại gặp vị giám mục, người bảo anh hãy xin một dấu hiệu. Gioan đã mang đến cho giám mục không chỉ một thứ: những bông hoa hồng Castile (tỉnh Tây Ban Nha) mà bình thường không có vào tháng Mười Hai, và hết sức ngạc nhiên, một hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Maria, in một cách kỳ diệu trên chiếc áo choàng của Gioan. Cho đến ngày nay, chiếc áo choàng miêu tả hình ảnh Đức Maria mang thai Chúa Giêsu, đôi chân Mẹ đang đạp nát đầu Satan vẫn còn.
Vì Gioan Điêgô đã thưa “vâng (có)” với yêu cầu của Đức Maria, nhà thờ mà Mẹ yêu cầu đã được xây dựng. Gioan sống bên cạnh nhà thờ trong suốt phần đời còn lại của mình, ngài kể cho du khách câu chuyện đã xảy ra và cho họ xem chiếc áo choàng kỳ diệu của của mình. Tin về sự hiện ra của Đức Maria lan đi và ngày càng nhiều người đến với Giáo Hội, hàng triệu người đã từ bỏ những mê tín của tổ tiên họ và đã được biến đổi tin vào Chúa Kitô. Đó là cuộc truyền giáo vĩ đại đầu tiên của châu Mỹ.
Những sự kiện này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng vẫn nói với chúng ta ngày hôm nay. Trong một nền văn hóa tuyệt vọng đang rất cần Tin Mừng, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ánh sáng cho dân Chúa. Giống như Thánh Gioan Điêgô, chúng ta không thể biết kết quả của sự vâng lời của chúng ta sẽ ra sao. Nhiệm vụ mà Chúa ban cho chúng ta thực sự có thể trông rất đơn giản. Nhưng nếu chúng ta cảm thấy sự thúc đẩy để nói: “Không phải con!” Chúng ta hãy nhớ rằng tiếng “có” của chúng ta có thể là chìa khóa mở ra phép màu.
Được đặt trong lộ trình Mùa Vọng, đoạn Tin Mừng hôm nay góp một nét vẽ khắc họa nên chân dung Gioan Tẩy Giả: Chúa Giêsu xác nhận ông là người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ ; ông là hiện thân của ngôn sứ Êlia với sứ mạng kêu gọi người ta sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Cao trọng là vậy, nhưng nhiệm vụ của Gioan xem ra rất đỗi bình thường, chẳng khác một phu dọn đường quét rác là mấy ; có khác chăng, con đường đây chính là lòng người, rác rưởi đây được hiểu là những lỗi tội của con người. Cao trọng là vậy, mà Gioan vẫn bị xếp dưới hạng so với những công dân Nước Trời. “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”, tuyên bố có vẻ mâu thuẫn và phần nào gây sốc này của Chúa Giêsu dường như lại hé mở một ngõ mới, lại chắp thêm cánh cho con người trên hành trình tìm kiếm trường sinh và hạnh phúc vĩnh cửu, đó là niềm khát mong chiếm được Nước Trời.
Khát mong này không phải là giấc mơ viển vông, cũng không phải là hy vọng hão huyền, nó là ước mơ chính đáng, phải đạo và có thể đạt được.
Và rồi chúng ta ssẽ hỏi làm thế nào để đạt được ước mơ thành công dân Nước Trời ? – Chúa Giêsu đã trả lời khi nói rằng: Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Làm thế nào để có được sức mạnh ấy ?
Thiết nghĩ một mặt ta cần tin tưởng vào Chúa, Đấng đã hứa sẽ đến cứu ta (x. Is 41, 13 – 20); mặt khác ta cần can đảm lao vào cuộc chiến đấu với bản thân mình vốn dẫy đầy những lỗi tội và yếu đuối, vốn hay đòi hỏi những điều nguy hại cho linh hồn ; ngoài ra, cũng cần dứt khoát vượt thắng những cản trở ngoài ý muốn của ta nhưng không nằm ngoài kế hoạch của ma quỷ và những thế lực thù địch vốn tìm mọi cách kéo ta xa lạc con đường về Trời.
Hôm nay, rất có thể tôi, bạn và anh chị, ta được đặt trước hai con đường với hai lựa chọn rõ rệt: ở trong hay ở ngoài Nước Trời ? Nếu chọn ở trong Nước Trời, hẳn ta đã biết mình phải làm gì. Nhưng có lẽ đây không phải là lần đầu tiên hay bây giờ ta mới lựa chọn. Ta đã chọn từ lâu, và ngay lúc này ta vẫn dễ dàng xác tín về lựa chọn ấy. Có điều là ta dường như vẫn còn trong vòng luẩn quẩn, vào - ra đến khó hiểu, đến sốt ruột vì đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tiến nhanh và tiến xa trên lối về Thiên Cung.
Hôm nay, lúc này, hẳn là dịp thuận tiện, là ngày lành tháng tốt để ta mời Chúa đến, để ta dám đặt tay mình vào bàn tay Chúa ngõ hầu Người có thể dắt ta đi, cùng ta chiến đấu và chiến thắng những khó khăn cản bước ; ngõ hầu Người có thể giúp ta hiểu và yêu mến những nghịch lý của Tin Mừng mà ở đó, các thang giá trị bị đảo ngược đến không ngờ như người rốt hết sẽ lên hàng đầu, hạt giống thối nát sẽ sinh cây xanh tốt, hạt giống bé tẹo sẽ tạo cây cao lớn, ...
Tất cả viễn ảnh trên sẽ trở thành hiện thực, nếu ta muốn chấp nhận sứ mạng dọn đường của Gioan tiền hô, nếu ta muốn dùng đôi tai để lắng nghe tiếng gọi sám hối của ông và can đảm qua trở về dọn lòng đón Đấng Cứu Thế. Hãy để cho Lời chạm vào hồn ta và chính Lời sẽ uốn nắn, đẽo gọt, sửa chữa hồn ta thành máng ấm cỏ êm cho Hài Vương vui ngự ; và nhất là biến ta thành những Gioan tiền hô mới, những phu dọn đường cho con người thời đại ngày nay, cho những anh chị em đang lạc đường xa lối và cho những anh chị em chưa từng được nghe Tin Mừng.
Huệ Minh 2021
Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng 2021.
(Tr) Đức Trinh Nữ Maria Lôretô 11 tháng 12 .
Mt 11, 16-19
Pharisiêu Cứng Lòng
Ngày 31/10/2019, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích ra sắc lệnh xác lập: lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Roma và được mừng vào ngày 10/12 mỗi năm.
Sắc lệnh viết: “Sự tôn kính Nhà Thánh Loreto, có từ thời Trung cổ, là nguồn gốc của đền thánh đặc biệt này, và ngày nay nhiều khách hành hương vẫn đến để nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa nhập thể cho chúng ta.
“Đền thờ này gợi lại mầu nhiệm Nhập thể và thúc đẩy tất cả những ai đến thăm viếng được cảm nhận “thời gian viên mãn”, khi Thiên Chúa sai Con của Người, sinh bởi một người nữ và qua cả lời thiên thần loan báo trong Tin Mừng lẫn lời xin vâng đáp lại của Đức Trinh Nữ. Được bao phủ bởi Thánh Thần, người tôi tớ khiêm nhường của Chúa đã trở nên ngôi nhà của Thiên Chúa, hình ảnh tinh khiết nhất của Giáo hội thánh thiện.”
“Tại Nhà Thánh, trước hình Mẹ của Đấng Cứu Thế và của Giáo hội, các thánh và các chân phước đã đáp lại tiếng gọi của riêng mình, những bệnh nhân đau đớn đến khẩn cầu và được an ủi, dân Chúa đã bắt đầu ca ngợi và cầu nguyện với Mẹ bằng kinh cầu Loreto vốn được phổ biến trên toàn thế giới. Đặc biệt những người di chuyển bằng máy bay tìm thấy nơi Mẹ là đấng bảo trợ trên trời.
Dưới ánh sáng này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban sắc lệnh với thẩm quyền của ngài, thiết lập lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch Roma ngày 10/12, ngày lễ tại Loreto và được mừng mỗi năm.
Do đó, lễ nhớ mới phải được ghi vào tất cả các lịch, sách phụng vụ Thánh Lễ và phụng vụ các Giờ kinh; những bản văn phụng vụ liên quan kèm theo sắc lệnh này và các bản dịch, được chuẩn nhận bởi các Hội đồng Giám mục, sẽ được phổ biến sau khi được Bộ này xác nhận.
Kiêu ngạo, mù lòa là căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: "Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?" Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: "Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài".
Chúa Giêsu đã phải than phiền, trách móc những kẻ khôn ngoan giả thời Ngài. Thế hệ mà Ngài đã đến, rao giảng lời Chân lý, nhưng họ đã trở thành người khuyết tật của đôi tai, đôi mắt, thành những kẻ cứng lòng tin. Rao giảng thế nào, họ cũng chẳng tin. Nếu Gioan Tẩy Giả đến sống khắc khổ, mời gọi ăn năn sám hối, thì họ lại lên án Gioan là người bị quỷ ám.
Ngược lại, Chúa Giêsu đến, cùng đồng bàn, cùng ăn, cùng uống trong nhịp đời của họ, thì họ lại ta thán, chỉ trích Ngài là kẻ mê ăn mê uống, bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài ví thế hệ chai lì ấy như cái lũ trẻ con chơi trò múa hát giữa phố chợ. Nhóm này thổi sáo, nhưng nhóm kia không thèm nhảy múa; nhóm này than vãn, nhóm khác tỉnh queo, không than không khóc. Đề nghị thế nào, họ cũng chẳng làm theo, bởi cái “cứng lòng” đã chi phối hết tất cả. Họ đã không tin Ngài.
Chúa Giêsu đã phản ứng lại và chỉ rõ cho thấy sự giả tạo của những kẻ khôn ngoan thông thái thời ấy. Cái khôn ngoan mà họ tự hào, dương oai tự đắc, thật ra là sự dốt nát, vì nó không chỉ bảo cho họ con đường sống, con đường nhận ra Đấng Thiên Sai. Sự chai lì trong tâm hồn đã phá đổ hạnh phúc, mà lẽ ra, con người có quyền được thừa hưởng.
Chúa Giêsu đến, Ngài đem lời của Tin Mừng cứu độ và ngỏ với con người. Chỉ những ai khôn ngoan thật mới nhận ra Ngài, mới nghe được tiếng Ngài. Ngài đã đồng kiếp người, trong những cái nhỏ nhoi nhất để chia san, để cùng sống với những cung bậc của nhịp đời con người đang sống với. Giữa những sai lầm của con người, Thiên Chúa lên tiếng, chỉ dạy, kêu gọi con người sám hối, trở về, tin vào Ngài để đón nhận ơn cứu rỗi. Ngài hướng dẫn, chỉ ra con đường của sự thật, con đường đi đến hạnh phúc trường sinh. Kẻ khôn ngoan thực phải là người rất tinh tế để nhận ra Ngài, Thiên Chúa của lòng mình. Sự khôn ngoan ấy sẽ giúp con người có được lòng khiêm tốn, mở ra để đón nhận chân lý và trở về với Thiên Chúa.
Một cuộc trở về với niềm tin. Niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy sẽ đưa con người đến cánh cửa của Chân Lý, của hạnh phúc thật. Niềm tin ấy sẽ vực dậy con người từ những hố cách ngăn của tội lỗi, xoa dịu những vết đau hằn sâu trong tâm hồn. Niềm tin vào Thiên Chúa cho con người hy vọng sống tròn đầy, chờ đợi ngày hạnh phúc vĩnh cửu. Niềm tin ấy hướng dẫn con người đi trên nẻo đường ngay chính, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay tại trần thế và ngưỡng vọng về đời sau.
Niềm tin vào Thiên Chúa, phải là điều căn bản của người Kitô hữu. Niềm tin ấy phải được thể hiện một cách sống động, hiện thực, cụ thể. Tin trong lòng, và tuyên xưng ngoài miệng chưa đủ, nhưng còn phải sống niềm tin ấy bằng cách thức riêng của mỗi cảnh đời chúng ta đang có.
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
Huệ Minh 2021
Chúa Nhật Tuần II MV 2018
Br 5, 1-9; Pl 1, 4-6. 8-11; Lc 3, 1-6
LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI CỦA GIOAN
Gioan là một con người đặc biệt và rồi một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy. Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan biết mình là Tiền Hô cho Ðấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Ðã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày. Ðường quan trọng là đường vào cõi lòng. Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp... Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn. Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu. Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối. Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống. Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người. Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Ðó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Ðó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm.
Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Sám hối, canh tân đời sống là một yêu cầu của đời sống đức tin. Bởi lẽ con người không thể đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu và đến với Ngài nếu không thay đổi suy nghĩ và lối sống xa lạ với giáo lý của Chúa. Tiếng kêu của Gioan gọi mời dọn đường cho Chúa đến, được vang lên trong Mùa Vọng, nhắc nhở chúng ta về điều ấy. Đây cũng chính là nền tảng thâm sâu của niềm vui Giáng Sinh, khi Con Thiên Chúa làm người, ngài lấp đầy những khát vọng nhân loại, một khát vọng được diễn tả qua nỗ lực canh tân cuộc sống.
Chúa Nhật Tuần II Mùa Vọng Năm C
DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA
Br 5,1-9; Pl 1,4-6.8-11; Lc 3,1-6
By Huệ Minh
Vọng là chờ và chờ thì phải có tinh thần sẵn sàng, chuẩn bị, đón ...
Là người, ai trong chúng ta cũng có tâm thức, cũng có cảm thức về sự chờ đợi. Có thể là chờ đợi một chuyến xe, có thể là chờ đợi một con đò hay có thể chờ người mẹ thân thương đi chợ về. Mỗi sự chờ đợi đều có kết quả nhất định của nó. Chờ xe để ta được đến nơi ta đến, chờ đò để được sang bờ bên kia và chợ mẹ đi chợ về chắc chắn không ít thì nhiều ta cũng có bịch chè táo xọn hay túi chè bà ba.
Ngoài sự chờ đợi thường ngày, chờ đợi mang tính con người, mang tính vật chất như chờ mẹ về có quà chợ thì người Kitô hữu lại có sự chờ đợi lớn hơn những chờ đợi thường ngày đó. Chờ đợi này của con người mang tính cách thiêng liêng, mang tính cách quyết liệt và quyết định cho đời của con người.
Chính vì vậy với Mùa Vọng, Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng cho cuộc chờ đợi thiêng liêng, chờ đợi ơn cứu độ, chờ đợi, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến.
Sự chờ đợi này hẳn nhiên là quan trọng hơn đợi đò, đợi xe, đợi mẹ bởi lẽ đợi xe không có thì đợi chuyến sau, đợi đò không được thì đợi thêm chuyến nữa và có thể hôm nay mẹ đi chợ về không có gì và mẹ hẹn ngày mai bởi lẽ mẹ ... hết tiền. Sự chờ đợi này hẳn nhiên căn cốt cũng không phải là dọn dẹp làm hang đá cho đẹp, hoành tráng, mà là dọn con đường tâm hồn mình.
Trang Tin Mừng rất ngắn hôm nay thánh Luca gợi lên cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả là “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4-6).
Chúa Giêsu Kitô đang ngự đến. Chúa đã đến rồi đó nhưng rồi có rất nhiều ‘núi cao, hố sâu’ ngăn cản giữa ta và Chúa và giữa Chúa với ta để Chúa khó đến hay thậm chí với chúng ta.
Đơn giản một con đường đang đi thênh thang bỗng dưng có hố sâu và có những đồi cao thì không tài nào qua được dù con người có cố gắng cách mấy. Với hố sâu, qua thì lọt tỏm xuống hố ngay và với đồi cao thì không tài nào đi qua được dù có đổ mồ hôi sôi con mắt.
Hố sâu ngăn cách làm cho con người khó và không gặp được Chúa đó chính là hố sâu tội lỗi và núi đồi kiêu căng, tự phụ. Và hẳn nhiên, dễ hiểu đó là để Chúa đến được với ta và ta đến được với Chúa chỉ có một cách thế duy nhất là phải bạt mọi núi đồi, san phẳng mọi hố sâu để Chúa ngự đến chiếm lĩnh tâm hồn ta.
Khởi đi bằng hành động sám hối. Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngự đến như có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5,14).
Rất khó để con người biết mình sai lỗi đó là căn bệnh thời đại của con người ngày hôm nay. Chính vì thế, khởi đầu là mình biết mình sai lỗi, rồi chấp nhận lỗi của mình để mình hoán cải bằng một hành động thiết thực.
Hành động thiết thực nhất ta có thể làm đó là ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn dốc lòng chừa vì lòng mến Chúa và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải để ta hòa giải với Chúa.
Tâm tình hòa giải đó là tâm tình mà Thiên Chúa mong muốn, Thiên Chúa mời gọi nơi mọi người chúng ta. Ta, một khi được giải thoát khỏi tội lỗi, ta được trở nên thánh thiện và được sống đời đời (x. Rm 6,22-23).
Trở lại với những trang đầu của Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, ta không thể nào quên được cái biến cố định mệnh tách lìa ta với tình yêu Thiên Chúa đó là do con người kiêu ngạo. Chỉ vì tưởng chừng ta bằng với Thiên Chúa để rồi kiêu căng huênh hoang như ông bà nguyên tổ giơ tay hái trái cấm.
Khởi đi sự kiêu căng của ta từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là ‘cái rốn của vũ trụ’, không coi ai ra gì, dần dần dẫn đến một tình trạng nguy hiểm hơn cả là cũng chẳng còn kính sợ Thiên Chúa. Sống tự phụ, cứ nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà chẳng cần ơn Chúa, và đây là một thái độ hết sức nguy hiểm, vì người đó loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.
Khi ta kiêu căng, chắc chắn Chúa không đến được với ta và ngược lại tha nhân cũng chẳng đến với ta được.
Khi ta kiêu căng, ta sẽ cô độc trong sự tự phụ của mình. Kết quả là ta đi đến chỗ bất mãn với tất cả và tự diệt vong (x. 2Tx 1,7-9). Cho nên phải bạt những núi đồi kiêu căng này.
Và chính khi ta biết khiêm nhường, ta mới thấy được rằng nếu không có Chúa thì tất cả những gì mình có, mình làm ra được chỉ là con số không. Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này khi ngài nói: “Tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” ( 2Cr 12,9).
Chúa Giêsu đến với ta hàng ngày không phải dưới hình ảnh Hài nhi Giêsu hay hình ảnh vị Thẩm phán cánh chung trong ngày Quang Lâm, nhưng dưới hình ảnh những người anh em thân cận, những người Chúa gởi đến với ta trong cuộc sống.
Có vô vàn ngăn trở khiến chúng ta không thể gặp Chúa nơi tha nhân. Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21-22).
Vì những ngăn trở như thế này đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí cha mẹ, con cái, anh em ruột thịt... chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Dặt mình trước mặt Chúa trong mùa Vọng này, ta nhớ lại chính Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài hiện diện trong các anh chị em chung quanh nên những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Ngài (Mt 25,40).
Khi cảm nhận được điều đó, dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn đường cho anh chị em chung quanh có thể đến được với mình, là xoá bỏ đi những ngăn cách giữa ta với tha nhân mà ta giáp mặt hằng ngày. Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân ly ngăn cách, thì lúc con đường mới dọn xong và Chúa mới có thể đến được với ta.
“Hãy dọn đường Chúa đến” bằng những hành động cụ thể: sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật; lấp mọi hố sâu của ganh ghét, chia rẽ, hận thù, thiên kiến, nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí vào nhau; bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, thói kiêu căng tự mãn bằng tinh thần khiêm nhu; lấp đi những hố sâu lòng tham lam, vơ vét, bất hoà bằng cách đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi của cá nhân; san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau bằng nói tốt, nghĩ tốt về nhau; san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống... Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đón Chúa đến nơi tha nhân giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Trong sâu lắng của tâm hồn, ta hãy xin Chúa hãy cất khỏi chúng ta tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa, và xin ban cho chúng ta tâm tình thống hối ăn năn để hoán cải theo tinh thần Tin mừng, để ngày Chúa đến chúng ta hân hoan đón tiếp Ngài.
Huệ Minh
10/12/2018
Thứ Hai Tuần II MV
Is 35, 1-10; Lc 5, 17-26
ĐẶT NIỀM TIN VÀO CHÚA
Tin Mừng hôm nay là một trình thuật tuyệt vời diễn tả về Ơn tha thứ và niềm tin cộng đồng. Đó là một trình thuật phép lạ có dụng ý giáo huấn, trong đó phép lạ được thực hiện như một dấu chỉ của ơn tha thứ. Và cao điểm của bản văn cho thấy Chúa Giêsu có quyền tha tội.
Với bút pháp sắc sảo, nghệ thuật khéo léo, thánh Luca đã dẫn mỗi người chúng ta cùng đi vào trải nghiệm của niềm tin cộng đồng, để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Bởi đó, khi đọc đoạn Tin Mừng này, lòng của mỗi chúng ta cũng được khơi lên tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Trang Tin Mừng hôm nay ta thấy Chúa Giêsu chữa người bại liệt có ba chi tiết đặc biệt:
Chi tiết thứ nhất là cách người ta đem bệnh nhân đến với Chúa. Khi Chúa Giê-su đang giảng, có bốn người khiêng tới một cái giường có một người bại liệt. Họ đã cố gắng tìm cách đưa bệnh nhân vào mà không được. Cuối cùng họ chọn giải pháp đem bệnh nhân lên mái nhà, giỡ mái ra rồi thòng dây thả xuống. Họ chỉ đặt đó thôi không nói năng nài xin gì. Nhưng ai nấy cũng hiểu họ muốn gì.
Như một sự tác động lan tỏa trong niềm tin cộng đồng, việc chứng nghiệm người bại liệt được chữa lành đã làm cho tất cả mọi người đều sửng sốt, và cảm nhận sự tác động của Thiên Chúa, họ “tôn vinh Thiên Chúa” và bảo nhau “hôm nay chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ”. Chính lòng khao khát được chữa lành mà người bại liệt đã được mọi người khiêng đến và niềm tin được chữa lành còn mạnh đến nỗi họ đã dỡ cả mái nhà để đưa bệnh nhân đến với Chúa (x. 5, 18-19).
Những người khiêng bệnh nhân bại liệt tin vào Chúa Giêsu. Họ tin rằng Ngài là niềm hy vọng duy nhất giúp chữa lành người bại liệt. Họ thấy lòng thương xót và trắc ẩn nơi Chúa Giêsu. Và Ngài có quyền năng ban cuộc sống tràn đầy cho con người.
Lòng quyết tâm và tài ứng biến của họ thật đáng ngưỡng mộ. Không nản lòng vì đám đông cản lối, họ leo lên mái nhà và thả người bại liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Thiên Chúa muốn chúng ta hãy mang lấy những gánh nặng của kẻ khác và đem chúng đến cho Ngài.
Chiếc cáng của người bại liệt là biểu tượng cho sự bất lực và lòng tuyệt vọng của người bệnh. Chúa Giêsu bảo anh đứng lên, vác lấy cáng mà đi về nhà. Ngài đã làm cho anh ta không còn để ý tới sự bất lực và thất vọng.
Đứng trước niềm tin cộng đồng, lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa đã thể hiện. “Này anh, anh đã được tha tội rồi”.
Điều đáng nói hơn ở đây là Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc chữa lành cho người bại liệt, nhưng Ngài đã chọn phép lạ chữa lành như một dấu chỉ của ơn tha thứ: “Để các ông biết ở dưới đất này con người có quyền tha tội… Tôi truyền cho anh hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà”.
Chi tiết thứ hai là Chúa Giêsu tha tội cho bệnh nhân. Chắc chắn Chúa biết người này đang đau khổ về thể xác, và chắc chắn người này cũng như thân nhân muốn xin Chúa chữa cho được lành mạnh. Nhưng tại sao câu đầu tiên Chúa lại nói là tha tội? Người này có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy? Quan niệm của người Do Thái cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội lỗi, bệnh càng nặng tức tội lỗi càng nhiều.
Ơn tha thứ chỉ có thể được Thiên Chúa ban cho mà thôi, và ơn đó cũng chỉ được đón nhận từ niềm tin. Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết tin vào Chúa, tìm cách đến với Chúa, để cảm nhận được tình thương và ơn tha thứ của Chúa. Để chúng ta cũng được Chúa chữa lành những căn bệnh tâm hồn, hầu chúng ta tôn vinh Chúa mỗi ngày, hăng hái đứng dậy, đổi mới, và bước đi trong ân sủng của Thiên Chúa như lòng Ngài mong muốn.
Chúa Giêsu không đồng tình với quan điểm ấy, đối với Chúa: tội lỗi là tội lỗi, bệnh tật là bệnh tật. Đây là hai vấn đề riêng biệt, không liên quan đến nhau. Khi nói “Này anh, tội anh được tha rồi” Chúa chỉ muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội. Ngài tha tội nên Ngài là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh cho người bại liệt qua Lời của Người (x. 5, 24). Ngài không chỉ tỏ quyền năng Thiên Chúa qua việc chữa lành bệnh thể xác mà Ngài còn cho tất cả mọi người thầy uy quyền của Thiên Chúa qua việc tha thứ tội lỗi (x. 5, 20). Chính qua việc tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã đưa ta trở về với Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Đó là niềm vui lớn nhất của mỗi Kitô hữu khi được hòa giải cùng Thiên Chúa, được Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm, thiếu xót và tội lỗi của chúng ta (x. 5, 25).
Chi tiết thứ ba là Chúa Giêsu thấu suốt ý nghĩ thầm kín của người khác. Việc Chúa nói tha tội cho người bại liệt, đối với những người Pharisiêu và Kinh sư là một hành động không thể chấp nhận được. Nhưng họ chưa kịp thổ lộ thì Chúa đã đọc được những ý nghĩ đó. Họ thầm nghĩ rằng ông này là ai mà dám nói phạm thượng? Là người mà dám tha tội cho người khác? Câu hỏi Chúa dành cho họ “Tha tội và chữa khỏi bệnh, đàng nào dễ hơn?” Sự thực cả hai đều khó, vượt quá sức con người. Để chứng tỏ cho mọi người biết Ngài có quyền tha tội, Chúa Giêsu đã làm phép lạ ngay trước mắt họ. Người bại liệt đã đứng dậy vác giường đi trước sự kinh ngạc của mọi người.
Ta hãy nhìn nhận mình qua hình ảnh của người bại liệt: anh ta toàn thân bại liệt tức là anh ta bất lực hoàn toàn phải nhờ thân nhân giúp đỡ. Một khi chúng ta lầm lỡ, khi ta phạm tội trọng là chúng ta bất lực trong việc hiệp thông với ơn Chúa. Ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu. Ngài là Đấng vô tội đã đến cứu chuộc chúng ta. Hãy đến với Chúa để được Ngài cứu chữa.
Cuộc sống của ta hôm nay cũng luôn cần đến sự trợ giúp của người khác, đặc biệt trong đời sống đức tin. Những lúc ta thấy mình yếu đuối, nản chí, mất kiên nhẫn trước những thử thách trong cuộc đời. Khi đó ta rất cần đến sự nâng đỡ của những người có đức tin vững mạnh. Chính họ sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn để vững tin vào Chúa hơn.
Lòng tin mạnh mẽ của người bại liệt vào tình thương của Chúa Giêsu là một bằng chứng và bài học quý giá cho bản thân tôi. Nhìn lại bản thân tôi tự hỏi, mình có tin cách tuyệt đối vào Chúa trong mọi hoàn cảnh không? Hay là tôi chỉ tin vào Chúa những lúc tôi cảm thấy được ơn này ơn nọ hay được bình an? Người bại liệt đã tin vào Chúa Giêsu, và sau khi được chữa lành anh ta đã vâng lời Chúa vác giường của anh mà đi về nhà. Hành động của người bại liệt là một bằng chứng hùng hồn cho việc làm chứng và lời rao giảng tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Ta hãy nhìn lại cuộc sống của ta có luôn là lời rao giảng và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa chưa, cách đặc biệt đối với người nghèo? Xét lại bản thân, ta thấy mình nhận được quá nhiều tình thương từ Chúa mà sự đáp trả của ta chưa có là bao! Đôi khi ta còn lơ là chưa chu toàn bổn phận hàng ngày! Ta chưa dấn thân đủ trong những vui buồn sướng khổ của cuộc sống. Ta chưa phó thác hết mình cho Chúa, lòng yêu mến của ta chưa đủ mạnh, vẫn còn lo cho bản thân và những chuyện tùy thuộc khác, một chút ích kỷ, một chút đam mê, một chút nghi ngờ. v.v.v.
Chúa vẫn luôn đặt bên cạnh ta những người bạn tốt để nâng đỡ và hướng dẫn, giúp ta can đảm sống đức tin giữa bao gian nan thách đố của cuộc sống. Ta không bao giờ được phép buông xuôi hay thất vọng, vì quyền năng và tình thương của Thiên Chúa vẫn mãi mãi hiện diện trong cuộc đời ta.
Qua phép lạ này, ta thấy Chúa tỏ cho mọi người biết Ngài tỏ hiện quyền năng bằng mọi cách. Qua cách chữa bệnh thân xác, lại có quyền tha tội hay chữa bệnh tâm hồn. Ngày nay Ngài tiếp tục hiện diện trong Hội Thánh, qua Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích giao hòa, để đem an bình chan hòa cho người thiện tâm, tin tưởng, phó thác vào Ngài – Đấng là chủ cuộc đời ta.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, ta xin Chúa cho ta biết vui mừng nhận ra Chúa qua những người kém may mắn, những người cô thế cô thân, những người anh chị em ma ta gặp gỡ. Xin Chúa tuôn đổ muôn ơn lành của Chúa và thêm ơn can đảm để ta ra đi đến với mọi người Chúa muốn chúng con phục vụ và đem Chúa đến bất cứ nơi nào Chúa cần đến sự phục vụ nhỏ bé của ta.
Thứ Ba tuần II MV
Mt 18, 12-14
BAO DUNG CHỨ ĐỪNG BUNG DAO
Với dụ ngôn hôm nay, Thiên Chúa mời chúng ta bao dung vì Chúa chính là người bao dung chúng ta trước, Ngài vẫn nhẫn nại tìm chúng ta dù chúng ta tội lỗi.
Và rồi ta thấy lẽ thường người ta chỉ cố sức tìm lại cái bị mất khi người ta thấy cái đó có giá trị. Người mục tử lặn lội đi tìm con chiên lạc vì vẫn coi con chiên đó là quý mặc dù nó đi lạc. Đối với Thiên Chúa, người nào cũng có giá trị, cho dù người đó là tội nhân. Bởi thế Ngài vẫn yêu thương, vẫn quý chuộng và lặn lội tìm cứu: “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất” (Lc 19,10).
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh để tìm một con chiên lạc được nhắm trước tiên đến những người biệt phái. Họ khó chịu khi thấy Chúa Giêsu kết thân với những người tội lỗi. Đề ra những khoản luật nghiêm nhặt về sự thanh tẩy, đặc biệt là thanh tẩy trước khi ăn, những biệt phái đã loại trừ nhiều tội nhân và những người thu thuế.
Qua và với cử chỉ này, Ngài không những muốn nói với các tội nhân rằng Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa đi tìm kiếm họ, Thiên Chúa tha thứ cho họ, nhưng Ngài còn mời gọi chính những người biệt phái, tức là những kẻ tự cho mình là lành thánh cũng phải hoán cải.
Hoán cải trong quan niệm của họ về lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhất là hoán cải trong cái nhìn của họ đối với người tội lỗi. Con người chỉ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa khi họ biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Điều đó cũng có nghĩa là lòng nhân từ của Thiên Chúa không hề làm cho con người ra vong thân, nhưng biến nó trở thành người hơn, có trách nhiệm và dấn thân hơn. Con người chỉ thực sự thống hối khi nó biết thực thi lòng nhân ái với tha nhân.
Thường thì người ta nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy qua dụ ngôn “con chiên lạc”, đó là: trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mỗi con người đều có một phẩm giá và vị trí riêng biệt. Tình yêu của Thiên Chúa thì cao vời, hơn hẳn luận lý thông thường của con người. Lòng thương xót mà Thiên Chúa dành cho con người là vô bờ bến và lòng thương xót ấy được biểu lộ cách tuyệt hảo nơi Đức Giêsu Kitô.
Qua Người Con Một dấu yêu, Thiên Chúa mạc khải cho nhân loại khuôn mặt dịu hiền, đầy bao dung, yêu thương và tha thứ của Người. Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian là để đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại và cho từng cá nhân cụ thể. Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân lành đã không tiếc thời giờ để đi tìm từng “con chiên lạc” như Giakêu (Lc 19,1-10), như người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4,7-42), hay như người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8,1-11),…
Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại không phải là một đại lượng toán học so sánh nhiều hay ít; cũng không phải là cuộc trưng cầu dân ý đa số luôn thắng thiểu số… mà tình yêu Thiên Chúa chính là giải pháp cứu độ của Thiên Chúa. Trong đó, mỗi một người đều có một phẩm giá và vị trí riêng biệt.
Tình yêu của Thiên Chúa thì cao vời hơn hẳn luận lý thông thường của con người. Cho nên không thể dùng phương thức tính toán thực nghiệm để minh chứng tình yêu của Chúa được, mà phải bằng lòng khiêm nhường, và tâm tình yêu mến đơn sơ chân thành thì mới suy thấu hết lẽ huyền nhiệm của tình yêu này.
Hình ảnh Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – Mục tử nhân lành là mẫu gương cách riêng cho các mục tử, nhưng cũng là tấm gương cho từng người chúng ta. Chúng ta có cách cư xử thế nào đối với những người anh em “bé nhỏ” về nhiều mặt của cuộc đời – khinh khi, không quan tâm, loại trừ hay động lòng nhân hậu xót thương, giúp đỡ, cầu nguyện…?
Mỗi người chúng ta cũng có những người thuộc về mình để mà quan tâm săn sóc, chúng ta đã hết mình trong bổn phận chưa hay chúng ta chỉ tà tà chủ chương ‘măc-kê-no’, thân ai nấy lo, đèn ai nấy rạng? Mùa vọng về, chúng ta đừng để cho những rộn ràng bên ngoài làm lóa mắt và chỉ nghĩ đến những vui chơi, phù phiếm, nhưng biết dừng lại, chìm lắng lòng mình để suy nghĩ - suy nghĩ về mục đích, ơn cứu độ đời mình; đồng thời nuôi niềm hy vọng – hy vọng, tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, hy vọng về ơn chữa lành, hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn hôm nay!
12/12/2018
Thứ Tư Tuần II Mùa Vọng Năm C - Đức Mẹ Gualalupê
Dcr 2, 14-17; Kh 11, 19; 12, 1-6. 10; Lc 1, 26-38; Lc 1, 39-47
LẮNG NGHE VÀ THỰC HÀNH NHƯ MẸ
12 tháng Mười Hai hàng năm, Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Guadalupe, đánh dấu ngày 9/12/1531, khi Đức Mẹ hiện ra ở Mexico với một nông dân 57 tuổi tên Juan Diego. Khi ấy Juan Diego đang đi bộ đến khu vực mà nay là thành phố Mexico (đồi Tepeyac), thì ông thấy Đức Mẹ hiện ra.
Để chứng minh cho Đức Tổng Giám mục những gì ông đã thấy, Đức Mẹ bảo ông leo lên đỉnh đồi để hái hoa. Khi lên tới nơi, Juan Diego tìm thấy những bông hoa hồng Castilian, vốn không nở vào mùa này và cũng không phải là loài sống được nơi đây.
Đức Mẹ đã sắp xếp số hoa tìm được vào chiếc áo tilma bằng sợi xương rồng của Juan. Và khi ông đến dinh thự của giám mục, mở chiếc áo choàng ra thì hoa rơi xuống sàn, trên bề mặt áo bỗng xuất hiện hình ảnh Đức Mẹ mà ngày nay được gọi là là “Đức Mẹ Guadalupe”. Chiếc áo tilma với hình ảnh Đức Mẹ chỉ trong vòng 7 năm đã tác động lên hàng triệu người, khiến họ chuyển sang đạo Công giáo.
Bên cạnh đó, chiếc áo hiện được trưng bày tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe ở thành phố Mexicô, Mexicô còn có nhiều điều lạ lùng mà các khoa học gia chưa thể giải thích.
Một trong những phép lạ vẫn còn tiếp diễn tới hiện tại là việc bức hình Đức Mẹ Guadalupe in lên trên một tấm vải thô sơ làm từ sợi cây xương rồng, mà bình thường thì tan rã trong vòng mười năm, tới nay vẫn còn nguyên vẹn. Trong mấy chục năm đầu, tấm hình được treo trong nhà nguyện và bao nhiêu dân chúng đã đến đó sờ mó mân mê. Tấm khăn đã bị ảnh hưởng trực tiếp của bao thời gian, thời tiết, và hương khói nghi ngút trong các buổi lễ hơn một trăm năm. Đến năm 1647, tấm khăn mang hình Đức Mẹ Guadalupe mới được lồng vào khuôn kính lần đầu tiên.
Trong mấy thế kỷ qua, những phương thức khoa học kỹ thuật ngày càng tân tiến và tinh vi, các nhà chuyên môn đã tìm mọi cách phân tích để hiểu hiện tượng trên mà họ vẫn không giải đáp được. Họ cũng không phân tích được hoá chất nào đã được dùng làm sơn in hình Đức Mẹ trên tấm vải ấy. Cho tới nay, các màu sắc vẫn còn linh động rực rỡ như lần đầu tiên Juan Diego mở rộng tấm khăn mình ra cho Đức Tổng Giám mục thấy những đoá hoa hồng.
Có thể rằng Đức Mẹ Guadalupe không những đã để lại hình ảnh của Người để chứng minh sự kiện Người đã hiện ra, mà còn có thể để lại cho chúng ta một vài điều nhắn nhủ quan trọng khác nữa. Những điều này được che giấu trong con ngươi con mắt trên bức hình cho tới bây giờ, lúc chúng ta có đủ phương tiện khoa học để khám phá, mà cũng là lúc chúng ta cần biết tới điều nhắn nhủ này nhất.
Với trang Tin mừng mà ta vừa nghe được công bố vào lễ Mẹ Guadalupe, Giáo hội muốn nói cho mọi người biết rằng lời Chúa nói qua tình thương của Mẹ tại các trung tâm Thánh Mẫu như đền thánh Mẹ Guadalupe phải được mọi người lắng nghe và thực hành là thiết tha yêu mến Mẹ để Mẹ dìu dắt tới yêu mến Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc và là cùng đích cuộc sống của mọi người.
Chúa Giêsu không hề chối bỏ mối quan hệ huyết thống với Mẹ Ngài và anh em trong dòng họ. Trái lại, Chúa Giêsu còn đề cao thái độ lắng nghe và thực thi lời Chúa bằng sự vâng phục của đức tin nơi Mẹ Maria. Chính nhờ thái độ “tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với Mẹ” (Lc 1, 45) mà Mẹ đã vâng theo thánh ý Chúa, cưu mang Ngôi Lời nhập thể bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Mẹ đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu bởi vì Mẹ đã lắng nghe và thực thi lời Chúa. Chúa Giêsu không chỉ được nuôi dưỡng và lớn lên nhờ bú mớm nơi dòng sữa của Mẹ, mà còn lớn lên trong lòng tin của Mẹ, cũng như “học được thế nào là vâng phục” (x. Dt 5, 8) qua thái độ“xin vâng” của Mẹ Maria.
Hơn ai hết, Mẹ Maria là kẻ đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa: "Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền". Lời thưa "Xin vâng" của Mẹ Maria khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và của sự sống mới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô để lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy, và mối phúc lắng nghe lời Chúa và sống thực hành cũng được mở ra cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại.
Mọi người, mọi thời đại, đều có thể hưởng được mối phúc thật khi họ biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền Mẹ Maria, nhưng Mẹ đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã nói với các gia nhân hãy làm theo lời Chúa Giêsu truyền. Và hành động vâng phục của họ đối với lệnh Mẹ Maria "hãy làm theo lời Ngài truyền", hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh.
Ðức Maria hai lần xứng đáng làm Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ thật vì đã sinh ra Chúa Giêsu, mà còn là Mẹ vì đã thực thi ý Cha trên trời. Trong biến cố truyền tin, Ðức Maria đã thưa với Sứ thần: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng theo lời thiên thần truyền". Ðiều đó nói lên suốt đời Ðức Maria, người luôn làm theo ý Chúa.
Một người khôn ngoan biết cái gì cần và cái gì không cần cho cuộc sống mình. Mang quàng mọi sự vào mình e chỉ làm bận bịu, vướng víu, ràng buộc, mất tự do, ảnh hưởng đến công việc.Sứ đồ của Chúa hành trang chỉ cần: biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Bao nhiêu đó là đủ. Quá lo lắng về của cải vật chất chỉ nhọc công, tốn sức và lãng phí thời giờ, thậm chí nhiều lúc nó còn ảnh hưởng xấu đến sứ mạng của mình. Những thứ đó Chúa sẽ lo liệu và không để ta thiếu thốn bao giờ.
Ta thấy qua những điều như vậy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lấy đức tin làm nền móng vững chắc để xây dựng đời sống của gia đình, mà đức tin ở đây được thể hiện qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt 7, 24). Thật thế, gia đình chỉ có thể sống yêu thương hoà thuận và hạnh phúc, khi mọi người biết đặt Chúa làm trọng tâm của gia đình và luôn luôn tìm kiếm thực thi ý Chúa, mà lời Chúa là thể hiện ý Chúa. Càng sống theo lời Chúa dạy, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân.
Và rồi từ đó, Chúa Giêsu nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập phải được coi là quan trọng hơn quan hệ huyết thống rất nhiều. Trong đó, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính đức tin và đức ái. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình. Trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng có thể làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.
Chớ gì chúng ta biết chạy đến với Mẹ Maria như mẫu gương của đức tin, cũng như của việc lắng nghe và thực hành lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người như Mẹ, để chúng ta cũng biết đón nhận tha nhân như người anh chị em trong tình yêu thương hoà thuận và hiệp nhất của gia đình Thiên Chúa.
13/12/2018
Is 41, 13-20; Mt 11, 11-15
DÙNG SỨC MẠNH ĐỂ CHIẾM NƯỚC TRỜI
Ta thấy giữa một xã hội thực dụng, con người thích những gì mắt thấy tai nghe. Chân lý dễ bị uốn cong bởi lợi ích vật chất và quyền lực thế gian. Cách hành xử "cá lớn nuốt cá bé" dường như là chọn lựa của nhiều nước trên thế giới. Thang giá trị của một người hay một quốc gia đều dựa trên quyền lực, tài chính và quân sự. Sống trong môi trường đó, người Kitô hữu phải chiến đấu với "thù trong giặc ngoài".
Người Kitô hữu phải lội ngược dòng chống lại những ham muốn tiền bạc, danh vọng và lạc thú; phải thoát khỏi những trào lưu hưởng thụ. Mục tiêu của người môn đệ Chúa là Nước Trời như thánh Phaolô đã xác quyết: "Quê hương chúng ta ở trên trời" (Pl 3, 20). Thiết nghĩ chỉ có sức mạnh đức tin và niềm phó thác mới giúp ta đạt đến quê hương đích thực này.
Để có được Nước Trời, con người ta phải mạnh mẽ, can đảm. Sức mạnh ở đây không hệ tại ở cơ bắp, tiền bạc hay quyền lực mà chính là sức mạnh của đức tin và lòng tín thác vào Chúa.
Chúa Giêsu thật có lý khi nói rằng: Nước Trời phải đương đầu bằng sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được (Mt 10, 22). Vì con đường dẫn đến sự sống là con đường hẹp.
Muốn chiến thắng, muốn có đủ khả năng đương đầu, ta phải có cái gì khác ngoài những đức tính bình thường? Nghĩa là phải có một ơn đặc biệt để nâng đỡ linh hồn giúp nó trở nên bất khả chiến bại. Nếu không có ơn sức mạnh thì không thể chống chọi lâu dài với các cơn cám dỗ của xác thịt, làm sao có thể vững tâm đi theo Chúa Kitô trong khi vai phải vác Thập Giá?
Chúa biết quá rõ điều đó, nên khi Chúa lập bí tích, Ngài đã lập thêm bí tích thêm sức, với mục đích ban ơn thánh thần, là căn nguyên của ơn sức mạnh, để biến chúng ta nên một Ki-tô hữu trọn lành, có đủ lòng can đảm và nghị lực để chống lại các cuộc tấn công của hoả ngục. Chu toàn bổn phận rất khó khăn mà không sờn lòng.
Ơn sức mạnh là ơn mà lòng linh hồn dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Nếu không dựa vào Thiên Chúa thì linh hồn chỉ còn cách là dựa vào chính mình. Và ta thấy Chúa nói: Vô phúc cho kẻ nào cậy dựa vào và đặt niềm tin vào các tạo vật (Gr 17, 5). Dựa vào chính mình là dựa vào một cây sậy đã gãy, nó sẽ đâm vào lưng kẻ nương tựa nó (Is 36, 6). Cuối cùng rồi nó sẽ ra sao? Điều gì đã xảy ra với Thánh Phê-rô khi ông ta cậy dựa vào sức mình?
Ơn sức mạnh lại rất cần thiết cho những người có tước vị và được giao quyền hành, những người này phải dùng những quyền mà Thiên Chúa giao để làm điều lành, tránh điều dữ. Giống như là bổn phận Cha mẹ với con cái, chủ nhân với đầy tớ, bề trên đối với bề dưới, Linh mục đối với các linh hồn mà họ phải coi sóc. Nếu các Ngài thiếu ơn sức mạnh, họ sẽ lạm dụng những người họ có bổn phận canh giữ, bảo ban / ma quỷ sẽ không ngủ gật. Chúng sẽ lợi dụng sự yếu hèn, vô kỷ luật để gieo cỏ lùng. Vì thế, sự dữ sẽ phát triển, nhiều linh hồn sẽ hư mất, lỗi và hình phạt sẽ rơi xuống những kẻ mà họ có bổn phận coi sóc, bởi vì họ đã không làm gì cả. Nên đời đời họ sẽ gánh chịu những hệ quả đáng sợ ấy.
Thánh Phaolô đã biết ơn sức mạnh là cần thiết cho việc cứu rỗi. Vì thế, sau khi ông khuyên bảo các tín hữu sự kiên nhẫn, đức hiền lành và lòng khiết tịnh, sau khi vạch rõ cho mỗi người biết những bổn phận phải làm, cho các người làm chồng, làm vợ, cho các bậc cha-mẹ và con cái, cho các chủ nhân và đầy tớ. Ông đã đưa ra cho họ các phương tiện để hoàn tất công việc mà ông muốn họ làm vì vinh danh Thiên Chúa: “Anh em hãy thấm nhuần thần khí (Ep 5,18)” Anh em hãy tìm sức mạnh và uy lực toàn năng trong Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước mọi mưu chước ma quỷ.
Vào Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm lấy được và kẻ nào mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Trước Chúa Kitô chưa ai có được ơn cứu rỗi cho đến khi Chúa Kitô chết trên Thánh Giá Ngài mới kéo tất cả mọi sự lên cùng Ngài. Ai muốn nhận được ơn cứu rỗi đó phải qua cửa hẹp, phải vác thập giá mình mà theo Chúa mới vào được Nước Trời, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy.
Theo Chúa để vào Nước Trời, chúng ta phải chiến đấu với chính bản thân mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói quen không tốt, những việc làm không chính đáng, phải hy sinh cho người thân quen thuộc trong gia đình, cho tha nhân và làm tất cả những gì khi có thể để giúp đỡ người khác mới thực sự là dấn thân thi hành giới răn “Mến Chúa Yêu Người”.
Muốn thành công trong cuộc sống, ta phải nỗ lực, khổ công tập luyện, hy sinh, thức khuya dậy sớm, lao tâm tốn sức, mới đạt được điều mình mong muốn. Nước trời cũng vậy, muốn vào Nước trời ta phải có "sức mạnh". Sức mạnh ở đây không phải là súng ống hay cơ bắp, nhưng là sức mạnh đức tin, tin tưởng vào Chúa. Nhờ có ơn ta dám can đảm làm chứng cho Sự Thật, Tình Yêu và Công lý, dám lội ngược dòng vì Tin mừng.
Nước Trời mà Chúa Giêsu rao giảng và thiết lập là một vương quốc trổi vượt hẳn, siêu vượt hơn các tổ chức và nhà nước của con người. Để vào nước Chúa không phải dùng sức mạnh trần thế nhưng phải dùng sức mạnh tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: “Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
Nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, sức mạnh này là sức mạnh tinh thần , sức mạnh ý chí của chúng ta trong cuộc sống đầy cám dỗ. Cuộc sống đưa đẩy ta làm cho con người chúng ta luôn chùn bước. Thất bại trên con đường tiếp cận Nước Trời là điều không thể tránh khỏi, nhưng sau lần thất bại đó ta trở nên là người như thế nào ngại phấn đấu, phó mặc cho cuộc đời càng xa lìa Nước Trời, hay một người lúc nào cũng hung hăng, quyết liệt chiến đấu, chủ yếu sống đời sống theo ý mình muốn để rồi bỏ qua đời sống đạo đức, trở nên bất mãn với mọi thứ kể cả chính bản thân mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết sử dụng sức mạnh một cách như Chúa muốn, xin cho chúng con luôn trung tín nghe và làm theo lề luật Chúa.
14/12/2018
Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng Năm lẻ
Is 48, 17-19; Mt 11, 16-19
LẮNG NHÌN DẤU CHỈ
Qua trang Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc đến ông Gioan tẩy giả : ông có một cuộc sống khổ hạnh; ông là tiếng kêu trong hoang địa, kêu gọi những người tội lỗi biết sám hối và chịu phép rửa để tỏ lòng thống hối ăn năn, chuẩn bị dọn lòng đón nhận Đấng Cứu Thế sắp đến; ông ra sức mời gọi mọi người bước vào một thời kỳ mới của Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện. Thế nhưng, lời của Gioan tẩy giả đã bị từ chối, bị chê bai và bị loại trừ.
Thật vậy, ông bị mọi người Do Thái gọi là kẻ điên, kẻ bị quỷ ám, và cuối cùng, ông bị chém đầu bởi bàn tay dã man của Hêrôđê. Thế là sứ mạng của ông chấm dứt cùng với cái chết tử đạo, mà chẳng có mấy ai cải thiện, sám hối ăn năn.
Chúa Giêsu so sánh thế hệ của Ngài với lũ trẻ trái tính trái nết: khi chúng chơi trò đám cưới (có “thổi sáo”) thì đòi người ta cũng chơi theo trò đó (“sao các anh không nhảy múa”). Các trẻ em thường chia làm hai phe. Bên xướng bên đáp. Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn...còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan... Khi chúng chơi trò đám ma (có “bài hát đưa đám”) thì cũng thế. Nghĩa là chúng chỉ muốn bắt người ta phải theo ý riêng của chúng, ai không theo thì chúng phê phán, trách móc.
Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình trọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui. Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!". Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều...
Cả Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu đều đến để dạy dân Do Thái con đường cứu độ. Nhưng vì điều đó không hợp với mong ước trần thế của họ nên họ luôn khước từ và còn phê phán. Hai ngài làm gì cũng bị họ chê: Gioan sống khắc khổ thì họ chê là “bị quỷ ám”; Chúa Giêsu sống hoà mình ăn uống với mọi người thì họ chê là “tay ăn nhậu”.
“Nhưng đức Khôn ngoan được biện minh bằng hành động”: giá trị thật của một người không tuỳ vào lời phê phán của người khác về người đó, nhưng tùy vào chính hành động, vào lối sống của người đó. Người ta nói Gioan Tẩy Giả “bị quỷ ám”, nói Chúa Giêsu là “tay ăn nhậu”. Không sao, hành động và lối sống của hai Ngài sẽ biện minh cho các Ngài.
Chúa Giêsu ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ, dạy dỗ người Do Thái về Nước Trời. Đi đến đâu, Ngài cũng làm phúc cho con người, qua những phép lạ cứu chữa người đau yếu bệnh tật, qua việc xua trừ ma quỷ. Ngài sống một cuộc sống bình dị, hòa đồng, gần gũi với mọi người, đặc biệt yêu thương, nhân từ đối với những người nghèo khổ, tội lỗi…khiến cho nhiều người mến phục, tin tưởng và muốn đi theo Ngài làm môn đệ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu bị nhiều người Do Thái từ chối không tin, cũng chẳng đón nhận Tin Mừng của Ngài rao giảng, cũng chẳng chấp nhận quyền năng vô song của Ngài trên ma quỷ, cũng chẳng tin những việc Chúa đã làm. Bằng chứng, người Do Thái cứng lòng, các giới chức Do Thái âm mưu tìm cách hãm hại Ngài, và cuối cùng họ đã đồng thanh bắt nộp, giết chết Ngài trên cây thập tự.
Những lời của Gioan Tẩy giả có thể an ủi những ai đang sẵn lòng ăn năn về tội lỗi của mình. Ông mang tin vui đến cho những ai khao khát được tha thứ; nhưng ông không mang tin vui đến cho những người tự cho mình là công chính, hay dửng dưng với Thiên Chúa và đường lối của Người. Gioan làm phép rửa nhằm xóa bỏ đường lối cũ. Nhưng phép rửa của Gioan chỉ là sự khởi đầu. Sau phép rửa bằng nước là phép rửa bằng lửa – đời sống mới mà Thánh Thần sẽ đổ tràn trên chúng ta qua Đức Giêsu và sự sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Như ngôn sứ Isaia và Gioan, chúng ta được mời gọi để mang niềm ủi an và tin vui đến cho tha nhân. Chúng ta hãy cố gắng tập trung khi chia sẻ ý nghĩa đích thực của mùa này với những ai thân cận nhất và với tha nhân chúng ta gặp trên đường mà Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta.Cùng với Gioan, chúng ta có thể cảm thấy như tiếng hô vang trong hoang địa khi chúng ta kêu gọi thế giới sửa đổi và chuẩn bị cho việc Chúa đến và cho đường lối của Người.
Gioan tẩy Giả mời gọi những người tuôn đến với ông trong sa mạc nhớ lại những công việc vĩ đại Thiên Chúa đã làm. Một lần nữa ông mời họ hãy tin rằng Thiên Chúa không bỏ rơi họ trong đau khổ và Người sẽ đến để giúp họ. Trong khi tự chuẩn bị, họ phải quay trở lại với nguồn gốc của họ trong niềm tin vào trong Thiên Chúa.
Dân Do Thái đã bị cầm tù và Thiên Chúa chúng ta sẽ giải thoát họ. Họ tưởng Thiên Chúa đã bỏ rơi họ, nhưng Người vào nơi khốn cùng của họ. Các lệnh truyền được ban ra: một con đường bằng phải được hoàn thành và trên con đường đó Thiên Chúa sẽ đến dẫn đưa dân về quê hương. Con đường sẽ được làm cho bằng phẳng vì các lữ khách sẽ mệt mỏi và kiệt sức sau một thời gian dài bị lưu đày. Những người trên đường sẽ thấy dân trở về Giêrusalem và biết rằng đây chính là công trình của Thiên Chúa. “Bấy giờ vinh quang của Đức Chúa sẽ được tỏ hiện và mọi người phàm sẽ cùng được thấy…” Ngoài Thiên Chúa, ai có thể thực hiện được công cuộc giải phóng vĩ đại này?
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh... Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.
Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng Năm C
Hc 48, 1-4. 9-11; Mt 17, 10-13
DẤU CHỈ CHÚA ĐẾN
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước. Đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Chúa Giêsu,Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ đã đến, Người có thể cứu chúng ta vì Người hoàn toàn khai mở chính mình cho Chúa Cha. Người hoàn toàn làm theo ý Cha. “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi,nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5, 30). Người là một người hoàn hảo, một con người đích thật, nhưng không hề kiêu ngạo và ích kỷ.
Chúa Giêsu chính là Adam mới, điểm khởi hành mới,đầu của nhân loại mới. Sự vâng phục của Người đền bù sự bất tuân của Adam và của tất cả chúng ta.Người chỉ cho chúng ta cách thế đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.Người “làm trống rỗng” chính mình để Thiên Chúa Cha có thể đổ đầy trên Người sự sống và tình yêu cho toàn thể nhân loại (Pl 2, 5-11).
Những người Do Thái đang mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng khi Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận. Ðiều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ rằng Ðấng Cứu Thế sẽ đến theo nghĩa chính trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Nhưng Gioan rao giảng về Ðấng quá bình thường đến nỗi họ không thể chấp nhận và còn chống đối.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Êlia mà Đức Giêsu nói đến lại là một người sống trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu và uống mật ong; là tiếng kêu được cất lên trong hoang địa, kêu gọi người ta dọn đường lòng để đón Đấng Thiên Sai (Mt 3,3-4), Êlia này chính là Gioan. Dân Do Thái đã không nhận ra Gioan là vị sứ giả của Đấng Cứu Thế. Họ chờ đợi nhưng thật ra đã từ chối chính dấu lạ mà Thiên Chúa gửi đến. Thế nên trước đời sống khổ hạnh và những lời kêu gọi hoán cải của ông, họ cho rằng đó là hành vi của một tên điên rồ, một kẻ bị quỉ ám. Thay vì đón nhận, họ đã từ chối, đã xử với ông theo ý họ và họ cũng sẽ xử như vậy với Đấng mà ông loan báo.
Khi Elia đến lần thứ hai, sẽ có phá đổ, chỉnh đốn mọi sự… để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai ngự đến giải thoát họ. Các môn đệ đi theo Chúa Giêsu đã được một thời gian, ít nhiều đã có lòng tin vào sứ mệnh Thiên Sai của Thầy mình.
Thế nhưng bây giờ Elia hiện ra đàm đạo với Thầy khiến các ông chợt thắc mắc: Thầy rao giảng công khai đã lâu, tại sao bây giờ mới thấy Elia xuất hiện? Phải chăng có gì trong Kinh Thánh mà các ông chưa hiểu được? Con mắt đức tin của các ông còn bị che khuất. Chỉ sau khi Chúa Giêsu giải thích, các ông mới hiểu rằng: Thầy chính là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã nói, còn Gioan Tẩy Giả chính là Elia đã đến trước chuẩn bị cho Thầy. Các môn đệ đã thất bại khi dùng lối suy nghĩ thông thường để hiểu Kinh Thánh. Nhờ ánh sáng mạc khải của Chúa Giêsu, đức tin của các môn đệ được củng cố và hiểu được Kinh Thánh cùng sứ vụ của Thầy.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi"
Gioan Tiền Hô tuy không mang tên là Êlia, nhưng ông lại là hiện thâncủa Êlia. Ông xuất hiện trong vai trò của Êlia. Ông đã sống và đã nói lên tinh thần của Êlia. Chính Chúa đã xác nhận điếu ấy: "Nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến" (Mt 17,14). "Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." (Mt 17,12)
Như vậy có thể nói: Gioan Tiền Hô là Êlia mới. Và nếu Êlia xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và “Ngày của Giavê” mà dân Chúa hằng mong đợi cũng đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền Hô đã là một dấu chỉ, là một thời điểm.
Ta đã biết Thiên Chúa đến giữa chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô thế nào rồi.Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết đời sống nội tại của Thiên Chúa,Chúa Ba Ngôi,và các Ngôi vị cư ngụ trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Người đã chia sẻ niềm vui nỗi buồn của loài người chúng ta và đã ban cho chúng ta đời sống mới.Người chỉ cho chúng cách sống đời sống mới qua cách sống của Người là hãy sống hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Huệ Minh
December 12, 2021