ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Kinh Truyền Tin 16/01/2022 : Tình yêu Thiên Chúa tỏ bày nơi dấu lạ tiệc cưới Cana

Vào trưa Chúa Nhật, ngày 16/01, tại cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đã cùng đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha có bài huấn dụ ngắn với các tín hữu. Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha mời gọi suy tư về dấu lạ tiệc cưới Cana. Một dấu lạ tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa.

Mở đầu bài huấn dụ, ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Tin Mừng Phụng vụ hôm nay thuật lại diễn biến tiệc cưới Cana, nơi Chúa Giêsu biến nước thành rượu trong ngày vui của đôi tân hôn. Và có thể kết luận thế này: “Đây là sự khởi đầu các dấu lạ của Chúa Giêsu; Người đã bày tỏ vinh quang và các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11). Chúng ta lưu ý rằng thánh sử Gioan không nói về một phép lạ, nghĩa là, một biến cố quyền năng và phi thường tạo ra sự kinh ngạc. Ông viết rằng một dấu lạ / dấu chỉ xảy ra ở Cana và nó làm khơi dậy đức tin của các môn đệ. Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi: theo Tin Mừng, “một dấu lạ” là gì?

Một dấu lạ là dấu vết cho thấy tình yêu của Thiên Chúa, vốn là điều không tạo nên sự chú ý đến sức mạnh của cử chỉ, nhưng hướng đến tình yêu đã khởi phát nó. Nó dạy chúng ta một điều gì đó về tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu luôn gần gũi, dịu dàng và đầy lòng trắc ẩn. Dấu lạ đầu tiên xảy ra khi một đôi tân hôn đang gặp rắc rối trong ngày quan trọng nhất của cuộc đời. Giữa bữa tiệc, một điều thiết yếu, là rượu, đã bị thiếu và niềm vui có nguy cơ bị dập tắt giữa những lời chỉ trích và không hài lòng của khách mời. Làm thế nào mà tiệc cưới tiếp tục diễn ra mà chỉ toàn là nước! Thật là tệ, đôi tân hôn sẽ trông rất tệ!

Chính Đức Mẹ đã nhận ra được vấn đề và kín đáo báo cho Chúa Giêsu, và Người đã can thiệp một cách lặng lẽ, hầu như không để lộ ra. Mọi việc diễn ra trong bí mật, “nơi hậu trường”: Chúa Giêsu bảo các gia nhân đổ đầy nước vào các chum để trở thành rượu. Đây là cách Thiên Chúa hành động, với sự gần gũi và kín đáo. Các môn đệ của Chúa Giêsu nhận ra được điều này: họ thấy rằng nhờ Người mà tiệc cưới càng trở nên đẹp đẽ hơn. Và họ cũng nhìn thấy cách thức hành động, cung cách phục vụ của Chúa Giêsu trong sự ẩn mình – đó là chính Chúa Giêsu, Người giúp đỡ chúng ta, phục vụ chúng ta trong sự ẩn mình, trong khoảng khắc đấy - và rồi rất nhiều lời khen về rượu ngon dành cho tân lang. Thế nên, hạt mầm đức tin bắt đầu phát triển trong họ, tức là họ tin rằng Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa, đang hiện diện nơi Chúa Giêsu.

Thật tốt khi nghĩ rằng dấu lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện không phải là một sự chữa lành phi thường hay một điều kỳ diệu trong đền thờ Giê-ru-sa-lem, mà là một cử chỉ đáp ứng nhu cầu đơn giản và cụ thể của những người bình thường, một cử chỉ ngay trong nhà, một phép lạ; chúng ta có thể nói như vậy, “đi kiễng chân”, kín đáo, thinh lặng. Người sẵn sàng giúp đỡ và nâng đỡ chúng ta. Và sau đó, nếu chúng ta chú ý đến những “dấu lạ” này, thì chúng ta sẽ được tình yêu của Người chinh phục và chúng ta trở thành môn đệ của Người.

Nhưng có một điểm đặc biệt khác nơi dấu lạ Cana. Nói chung, rượu được đưa ra cho đến cuối bữa tiệc là loại kém ngon, vì đó là loại đã được pha nhiều nước. Thậm chí ngày nay, người ta cũng làm như vậy, người ta không thể phân biệt rõ đâu là rượu ngon và đâu là rượu pha nước. Ngược lại, Chúa Giêsu làm cho bữa tiệc kết thúc với loại rượu ngon nhất. Điều này cho chúng ta thấy một cách biểu tượng rằng Thiên Chúa muốn điều tốt nhất cho chúng ta, Người muốn chúng ta hạnh phúc. Nó không đặt ra giới hạn và không yêu cầu chúng ta về lợi ích. Trong dấu lạ của Chúa Giêsu, không có chỗ cho những động cơ khác để đưa ra yêu sách đối với đôi tân hôn. Không, niềm vui mà Chúa Giêsu để lại trong trái tim là niềm vui tràn đầy và nhưng không. Nó không phải là niềm vui pha nước!

Vì vậy, tôi đề nghị một bài tập có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Hôm nay chúng ta hãy thử lục lại ký ức để tìm kiếm những dấu lạ mà Chúa đã thực hiện trong cuộc đời tôi. Mỗi người hãy nói: trong đời tôi, Chúa đã thực hiện dấu lạ nào? Chúng gợi lên điều gì về sự hiện diện của Người? Những dấu lạ được thực hiện để cho chúng ta thấy rằng Người yêu thương chúng ta; khoảnh khắc khó khăn mà Chúa đã giúp tôi cảm nghiệm được tình yêu của Người... Và chúng ta hãy tự hỏi: qua những dấu lạ nào, kín đáo và ân cần, Người đã làm cho tôi cảm nhận được sự dịu dàng của Người? Khi tôi cảm thấy Chúa gần gũi hơn, khi nào tôi cảm thấy sự dịu dàng, lòng trắc ẩn của Người? Mỗi người trong chúng ta trong lịch sử đời mình đều có những khoảnh khắc này. Chúng ta hãy khám phá ra những dấu lạ đó, ghi nhớ chúng. Làm thế nào tôi khám phá ra sự gần gũi của Người và một niềm vui lớn vẫn còn trong lòng tôi thế nào? Chúng ta hãy hồi tưởng lại những khoảnh khắc mà chúng ta đã cảm nghiệm sự hiện diện của Người và sự chuyển cầu của Mẹ Maria. Xin Mẹ, như ở Cana, Mẹ luôn để ý, giúp chúng ta biết trân trọng những dấu lạ của Chúa trong cuộc đời chúng ta.

vaticannews.va/vn

 

Kinh truyền tin với ĐTC. 20-1-2019

ĐTC Phanxicô: Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại (20-1-2019)

Phép lạ tại tiệc cưới Cana mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Chúa Giêsu chính là vị hôn phu đích thực của Giáo hội. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại. Chúa Giêsu hiện diện tại tiệc cưới Cana chính là tin vui cho con người. Người chia sẻ số phận của con người. Người tái lập lại giao ước tình yêu đã bị con người phản bội.

Hồng Thủy - Vatican

Đó là ý tưởng ĐTC Phanxicô đã chia sẻ về ý nghĩa của bài Tin mừng Chúa nhật thứ 2 mùa quanh năm, trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 20.01. ĐTC mời gọi các tín hữu hãy ghi nhớ lời Mẹ Maria : “Bất cứ điều gì Chúa yêu cầu, hãy làm theo!”. ĐTC bắt đầu bài huấn dụ như sau:

Phép lạ Cana mặc khải tình yêu của Thiên Chúa

Chúa nhật tuần trước, với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã bắt đầu hành trình phụng vụ mùa thường niên: trong thời gian này chúng ta theo Chúa Giêsu trong cuộc đời công khai, trong sứ vụ mà Chúa Cha đã sai Người đến thế gian để thực hiện. Trong Tin mừng hôm nay (x. Ga, 2,1-11), chúng ta đọc thấy trình thuật kể lại phép lạ đầu tiên trong các phép lạ của Chúa Giêsu.

Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại

ĐTC giải thích ý nghĩa của dấu chỉ đầu tiên trong số các dấu chỉ lạ lùng được thực hiện tại Cana, vùng Galilea, trong một tiệc cưới. Không phải tình cờ mà khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu lại được đặt trong bối cảnh của một lễ cưới, bởi vì qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại: đây là tin vui, ngay cả khi những người mời Chúa chưa biết rằng Con Thiên Chúa đang ngồi cùng bàn với họ và Người là chàng rể đích thực. Trên thực tế, tất cả mầu nhiệm về phép lạ ở Cana nằm ở sự hiện diện của Chúa Giêsu, chàng rể thần linh, Đấng bắt đầu tỏ mình ra. Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị hôn phu của dân Thiên Chúa, đã được các ngôn sứ loan báo và bày tỏ cho chúng ta sự sâu thẳm của mối tương quan liên kết chúng ta với Người: đó là một Giao ước mới của tình yêu.

Luật Môse trở thành điều mang niềm vui

Trong bối cảnh của Giao ước, chúng ta hiểu trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng của rượu, thứ là trọng tâm của phép lạ này. Chính lúc tiệc cưới đang diễn ra nửa chừng thì rượu lại hết, Mẹ Maria, như một người mẹ, nhận ra điều này và ngay lập tức đến nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (c.3). Các sách Thánh kinh, đặc biệt là các sách ngôn sứ, xác định rượu như yếu tố đặc trưng của bữa tiệc của Đấng Cứu Thế (x. Am9,13-14; Ge 2,24; Is 25,6), khi Đấng Cứu Thế đến.  Nước cần thiết để sống nhưng rượu diễn tả sự tràn đầy của bữa tiệc và niềm vui của ngày lễ. Khi biến nước trong các bình được dùng “cho việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái” (c.6) thành rượu, Chúa Giêsu thực hiện một dấu chỉ hùng hồn: biến đổi Luật Môsê trong Tin mừng thành điều mang niềm vui.

“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”

ĐTC mời gọi các tín hữu vâng theo lời dạy của Mẹ Maria, ngài nói: Những lời của Mẹ Maria nói với gia nhân trở thành triều thiên của tiệc cưới Cana: “Người bảo gi các anh cứ việc làm theo” (v.5). Ngày hôm nay, Mẹ Maria cũng nói với tất cả chúng ta: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo”. Những lời này là gia sản quý giá mà Mẹ của chúng ta để lại cho chúng ta. Và thực tế là, tại Cana, các gia nhân đã vâng lời Mẹ. “Chúa Giêsu nói với họ: Hãy đổ đầy nước vào chum đi. Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: ‘Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông” (cc 7-8). Thật vậy, trong tiệc cưới này, một Giao ước mới được lập ra và sứ mạng mới được giao phó cho các tôi tớ của Chúa, nghĩa là cho toàn thể Giáo hội: “Bất cứ điều gì Người yêu cầu, các con hãy làm theo”.

Phục vụ Thiên Chúa nghĩa là lắng nghe và thực hành lời Người

Phục vụ Thiên Chúa nghĩa là lắng nghe và thực hành lời Người. Đó là lệnh truyền đơn giản và thiết yếu của Mẹ Chúa Giêsu, đó là chương trình sống của Kitô hữu. Tôi muốn nhấn mạnh đến một kinh nghiệm mà chắc chắn nhiều người chúng ta đã gặp trong cuộc sống. Khi chúng ta ở trong những tình cảnh khó khăn, khi các khó khăn xảy đến mà chúng ta không biết cách giải quyết, khi chúng ta cảm thấy lo lắng đau khổ, khi chúng ta thiếu niềm vui, chúng ta đến với Mẹ Maria và nói: “Con không có rượu, rượu hết rồi: Mẹ hãy nhìn xem con đang thế nào đây; hãy nhìn vào trái tim con, hãy nhìn tâm hồn con.” Hãy nói với Mẹ. Và Mẹ sẽ đến với Chúa Giêsu và nói: “Con hãy nhìn người này: không còn rượu”. Và rồi Mẹ sẽ trở lại và nói với chúng ta: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo”. Đối với mỗi người chúng ta, kín múc nước từ bình nghĩa là dựa vào Lời Chúa và các bí tích để cảm nghiệm ân sủng của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Từ đó, cả chúng ta, như người quản tiệc đã nếm thử nước đã hóa thành rượu, chúng ta có thể thốt lên: “Còn Chúa, Chúa đã giữ phần rượu ngon lại cho đến bây giờ” (c. 10). Chúa Giêsu luôn làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy thưa với Mẹ để Mẹ nói với Chúa Con và Người sẽ làm chúng ta ngạc nhiên.

Cuối cùng, ĐTC cầu xin Đức Trinh nữ rất thánh Maria giúp chúng ta theo lời mời của Mẹ: “Bất cứ điều gì Người nói với các con, hãy làm theo” để chúng ta có thể hoàn toàn cởi mở với Chúa Giêsu, bằng cách nhận ra trong cuộc sống mọi ngày những dấu chỉ sự hiện diện sống động của Người.

 

kinh truyền tin Chúa Nhật II thường niên 2016

của Đức Thánh Cha Phanxicô

http://media02.radiovaticana.va/photo/2016/01/17/RV12642_Articolo.jpgThiên Chúa chúc lành cho hôn nhân và muốn là Phu Quân của từng người

 

Phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cuới làng Cana là một dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành cho hôn nhân. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ là một con đường tốt giúp sống Tin Mừng, nghĩa là bước đi trên lộ trình của sự thánh thiện. Nhưng mỗi một người đều được mời gọi gặp gỡ Chúa như Phu Quân của cuộc đời mình.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 50.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC đã đề cập đến trình thuật phép lạ biến nước thành rượu ngon trong tiệc cuới làng Cana, nơi Mẹ Maria, Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên được mời tham dự. Khi nghe Mẹ Maria cho biết họ thiếu rượu, Chúa Giêsu trả lời là giờ con chưa đến, nhưng rồi ngài đã làm phép lạ. Thánh sử Gioan ghi: “Đây là khởi đầu các dấu lạ Chúa Giêsu làm. Ngài biểu lộ vinh quang Ngài, và các môn đệ tin nơi Ngài” (Ga 2,11). ĐTC định nghĩa các phép lạ như sau:

Như thế các phép lạ là các dấu chỉ kèm theo lời rao giảng Tin Mừng, và chúng có mục đích khơi dậy và củng cố niềm tin nơi Chúa Giêsu. Trong phép lạ thành toàn tại Cana, chúng ta có thể nhận ra một cử chỉ lòng nhân hậu của Chúa Giêsu đối với đôi vợ chồng, một  dấu chỉ phước lành của Thiên Chúa đối với hôn nhân. Như thế, tình yêu giữa một người nam và một người nữ là một con đường tốt giúp sống Tin Mừng, nghĩa là để tươi vui bước đi trên lộ trình của sự thánh thiện.

Nhưng phép lạ Cana không chỉ liên quan tới đôi vợ chồng. Mỗi người đều được mời gọi gặp gỡ Chúa như Phu Quân của cuộc đời mình. Đức tin kitô là một ơn chúng ta nhận được với bí tích Rửa Tội, và nó cho phép chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Đức tin trải qua các thời gian tươi vui, đau khổ, ánh sáng và bóng tối, như trong mọi kinh nghiệm của tình yêu. Trình thuật đám cưới Cana mời gọi chúng ta tái khám phá ra rằng Chúa Giêsu không tự giới thiệu như là một thẩm phán sẵn sàng lên án các tội lỗi của chúng ta, cũng không như là một vị chỉ huy bắt buộc chúng ta theo lệnh của mình một cách mù quáng. Ngài tự biểu lộ như Phu Quân của nhân loại: như là Đấng đáp trả các chờ mong và các lời hứa của niềm vui ở trong con tim của từng người trong chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Như vậy chúng ta có thể tự hỏi: tôi có thật sự biết Chúa như thế không? Tôi có cảm thấy Ngài như là Phu Quân cuộc đời tôi không? Tôi có đang đáp trả lại trên cùng làn sóng của tình yêu hôn nhân, mà Ngài biểu lộ cho tôi và cho mỗi người mọi ngày hay không? Đây là việc ý thức rằng Chúa Giêsu tìm chúng ta và mời gọi chúng ta dành chỗ cho Ngài trong cùng thẳm con tim của chúng ta. Và trên con đường đức tin này với Ngài chúng ta không bị bỏ rơi một mình: chúng ta đã nhận được ơn Máu Chúa Kitô. ĐTC giải thích ý nghĩa các chum nước như sau:

Các chum nước bằng đá, mà Chúa Giêsu khiến đổ đầy nước để biến thành rượu, là dấu chỉ việc bước từ giao ước cũ sang giao ước mới. Thay vì nước dùng cho việc thanh tẩy theo lễ nghi, chúng ta đã nhận được Máu Chúa Giêsu, đã đổ ra một cách bí tích trong Thánh Thể, và một cách đổ máu của cuộc Khổ Nạn và trên Thập Gía. Các Bí Tích tuôn trào từ Mầu Nhiệm Phục Sinh đổ vào trong chúng ta sức mạnh siêu nhiên, và cho phép chúng ta nếm hưởng lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Xin Đức Trinh Nữ, mẫu gương của việc suy gẫm các lời nói và các việc làm của Chúa, giúp chúng ta tái khám phá ra với đức tin vẻ đẹp và sự phong phú của Thánh Thể và các Bí Tích khác làm cho tình yêu của Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ luôn luôn ngày càng say mê Chúa Giêsu hơn, Phu Quân của chúng ta, và đi gặp Ngài với đèn sáng của đức tin tươi vui, và như vậy trở thành các chứng nhân của Ngài trong thế giới.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Ngày Quốc Tế của người Di Cư và Tỵ Nạn, trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, được cử hành như Năm Thánh của người di cư. Ngài nói: Tôi vui sướng thân ái chào các cộng đoàn chủng tộc hiện diện tại đây đến từ Italia, đặc biệt là vùng Lazio. Anh chị em di cư và tỵ nạn thân mến,  mỗi người trong anh chị em đều mang trong mình một lịch sử, một nền văn hoá, các giá trị quý báu. Nhưng rất tiếc thường khi cũng là các kinh nghiệm của bần cùng, áp bức và sợ hãi. Chúng ta đừng để đánh cắp đi niềm hy vọng này và niềm vui sống vọt lên từ kinh nghiệm của lòng thương xót Chúa, kể cả nhờ những người đã tiếp đón và trợ giúp anh chị em. Ước chi việc bước qua Cửa Thánh và Thánh Lễ, mà anh chị em sẽ sống trong chốc lát nữa đây, làm cho con tim của anh chị em tràn đầy niềm vui. Tôi xin cám ơn các tù nhân nhà tù Opera đã dâng cúng bánh lễ  chính họ đã làm cho buổi cử hành này. ĐTC đã mời mọi người vỗ tay hoan hô các tù nhân.

Tiếp đến ngài chào nhiều nhóm khác nhau như hiệp hội Napredak Sarajevo, các sinh viên vùng Badajoz và Palma de Mallorca bên Tây Ban Nha cũng như các bạn trẻ Osteria Grande tỉnh Bologna Trung bắc Italia. Sau cùng Ngài xin mọi người cùng đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các nạn nhân của các vụ khủng bố xảy ra trong các này vừa qua bên Indonesia và Burkina Faso. Xin Chúa tiếp nhận họ vào Nhà Ngài và nâng đỡ dấn thân của cộng đoàn quốc tế trong việc xây dựng hoà bình.

Vào lúc bốn giờ chiều ĐTC đã đến thăm hội đường Do thái tại Roma. Đây là lần thứ ba một vị Giáo Hoàng đến thăm hội đường này, sau Đức Gioan Phaolo II  và Đức Biển Đức XVI. Ngỏ lời với cộng đoàn Do thái, ĐTC đã khẳng định rằng các tín hữu Do tháí là các anh chị lớn của các kitô hữu trong đức tin của những người thuộc cùng một gia đình của  Thiên Chúa. Như là tín hữu do thái và công giáo chúng ta được mời gọi lãnh các trách nhiệm đối với thành phố Roma, bằng phần đóng góp tinh thần và tạo thuận tiện cho việc giải quyết các vấn đề khác nhau hiện nay. ĐTC cầu mong sự gần gũi, hiểu biết và quý mến nhau ngày càng gia tăng giữa hai cộng đoàn lòng tin. Chính vì thế mà ngài đến thăm cộng đoàn do thái đúng ngày 17 tháng giêng, là ngày HĐGM Italia cử hành “Ngày đối thoại giữa các tín hữu công giáo và do thái”. Ngài cũng lập lại điều đã nói ngày 28 tháng 10 năm vừa qua nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Nostra aetate về đối thoại giữa Công Giáo và Do Thái giáo và biết ơn Thiên  Chúa đã khiến cho tương quan giữa hai bên thay đổi trong 50 năm qua. “Sự thờ ơ và chống đối biến thành cộng tác và nhân hậu. Từ thù địch và xa lạ trở thành bạn hữu và anh em. Với Tuyên ngôn Nostra aetate Công Đồng đã vạch ra con đường: “có” với việc tái khám phá ra gốc rễ do thái của Kitô giáo; “không” với mọi hình thức bài Do thái và lên án mọi xỉ vả, kỳ thị và bách hại bắt nguồn từ đó”. Tài liệu đã định nghĩa trên bình diện thần học lần đầu tiên một cách rõ ràng các tương quan của Giáo Hội Công Giáo với Do Thái Giáo. Ngày mùng 10 tháng 12 năm 2015 Ủy ban đối thoại với Do thái giáo cũng đã công bố một tài liệu mới, liên quan tới các vấn đề thần học nảy sinh trong các thập niên qua. Để hiểu biết chính mình các kitô hữu không thể không quy chiếu gốc rễ do thái, và tuy tuyên xưng ơn cứu độ qua niềm tin vào Chúa Kitô, Giáo Hội thừa nhận tính cách không thể thu hồi của Giáo Ước Cũ và tình yêu liên lỉ và trung thành của Thiên Chúa đối với dân Israel.

Cùng với các vấn đề thần học các tín hữu do thái và kitô không thể quên các thách đố mà thế giới đang phải đương đầu như cống hiến cho nhân loại sứ điệp kinh thánh về việc săn sóc thụ tạo cho một môi sinh toàn vẹn; dấn thân và củng cố hoà bình và công lý trước các xung khắc, chiến tranh, bạo lực và bất công xâu xé nhân loại. Bạo lực của con người trên con người trái nghịch với mọi tôn giáo, đặc biệt đối với ba tôn giáo nhất thần. Sự sống là thánh thiêng, Thiên Chúa là Thiên  Chúa của sự sống và Ngài luôn luôn muốn thăng tiến và bảo vệ nó. Mọi bản vị con người như thụ tạo của Thiên Chúa, là anh em của chúng ta, một cách độc lập với nguồn gốc hay tôn giáo của họ. Mọi người đều được nhìn với lòng nhân hậu như Thiên Chúa là Đấng giang bàn tray thương xót cho tất cả mọi người và săn sóc mọi người cần đến Ngài nhất: những người đau yếu, bị gạt bỏ ngoài lề, không được bênh đỡ. Nơi đâu sự sống gặp nguy hiểm, chúng ta lại càng được mời gọi che chở nó…

Trong lịch sử của mình dân Do thái đã phải sống kinh nghiệm bạo lực và bách hại cho tới vụ diệt chủng người do thái âu châu. Chỉ vì là dân Do thái sáu triệu người đã là nạn nhân của sự dã man vô nhân được thi hành nhân danh một ý thức hệ muốn thay thế Thiên Chúa bằng con người. Ngày 16 tháng 10 năm 1943 hơn một ngàn người đàn ông phụ nữ và trẻ em của cộng đoàn do thái Roma đã bị đầy sang trại tập trung Auschwwitz. Hôm nay tôi muốn đặc biệt tưởng niệm họ. Không bao giờ được quên các khổ đau, các âu lo và nước mắt của họ. Và quá khứ phải là bài học cho hiện tại và tương lai. Cuộc diệt chủng Do thái Shoah dậy chúng ta phải rất tỉnh thức để tức tốc can thiệp bảo vệ nhân phẩm và hoà bình.

Linh Tiến Khải - vietvatican.net

January 17, 2022