BUỔI TIẾP KIẾN CHUNG THỨ TƯ HÀNG TUẦN

của Đức Thánh Cha Phanxicô

 

Tiếp kiến chung 18/12/2024 - Loạt bài giáo lý mới trong Năm Thánh: Chúa Giêsu niềm hy vọng của chúng ta

Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 18/12/2024, Đức Thánh Cha đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới cho Năm Thánh, với chủ đề “Chúa Giêsu Kitô là niềm hy vọng của chúng ta”, bởi vì Người là đích điểm cuộc hành trình dương thế của chúng ta. Ngài mời gọi các tín hữu canh tân sự dấn thân của mình để thể hiện những món quà hòa giải, hòa bình và hy vọng mà Chúa đã mang đến thế giới này thông qua sự Nhập thể của Người.

Vatican News 

Trong bài giáo lý đầu tiên trong phần suy tư về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha đã giải thích về ý nghĩa của gia phả của Chúa Giêsu, như được trình bày ở đầu Tin Mừng Thánh Mátthêu.

Đức Thánh Cha nói rằng gia phả của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời và danh tính của Người thuộc về một lịch sử lớn hơn bao gồm tổ tiên, gia đình và đức tin của toàn thể dân Israel. Sự hiện diện của bốn người phụ nữ ngoại bang trong gia phả theo Thánh Mátthêu nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu được sai đến để trở thành Đấng Cứu Độ của mọi dân tộc. Chúa Giêsu chào đời từ Đức Trinh Nữ Maria là dấu hiệu của một khởi đầu mới cho gia đình nhân loại của chúng ta.

Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu, khi Giáng sinh đang đến gần, hãy nghĩ đến tổ tiên, ông bà của chúng ta và di sản của tất cả những người già cả. Họ là một món quà từ Thiên Chúa; hãy biết ơn các ông bà cha mẹ, những người trao ban sự sống cho chúng ta, đồng thời cũng là người thông truyền đức tin cho chúng ta. Ngài cũng mời gọi các tín hữu canh tân sự dấn thân của mình để thể hiện những món quà hòa giải, hòa bình và hy vọng mà Chúa đã mang đến thế giới này thông qua sự Nhập thể của Người.

Sau khi Đức Thánh Cha làm Dấu Thánh Giá và chúc bình an cho cộng đoàn, mọi người cùng lắng nghe đoạn Tin Mừng Thánh Mátthêu (Mt 1,1-3.5.15-16):

Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Ápraham. Ông Ápraham sinh ông Ixaác; ông Ixaác sinh ông Giacóp; ông Giacóp sinh ông Giuđa và các anh em ông này; ông Giuđa ăn ở với bà Tama sinh ông Perét và ông Derác; [...]. Xanmôn lấy bà Rakháp sinh ông Bôát; ông Bôát lấy bà Rút sinh ông Ôvết; ông Ôvết sinh ông Giêsê; ông Giêsê sinh Vua Đavít. Vua Đavít lấy vợ ông Urigia sinh Vua Salômôn [...]. Ông Mátthan sinh ông Giacóp; ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô.

Và sau đó Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý như sau:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay chúng ta bắt đầu loạt bài giáo lý sẽ được suy tư trong suốt Năm Thánh. Chủ đề của loạt bài giáo lý này là “Chúa Giêsu Kitô niềm hy vọng của chúng ta”: thực vậy, Người là đích điểm cuộc hành hương của chúng ta, và chính Người là đường, là con đường để chúng ta bước đi.

Các Tin Mừng Thời Thơ ấu của Chúa Giêsu

Phần đầu tiên sẽ đề cập đến thời thơ ấu của Chúa Giêsu, được các Thánh sử Mátthêu và Luca thuật lại với chúng ta (xem Mt 1–2; Lc 1–2). Các Tin Mừng Thời Thơ ấu của Chúa Giêsu kể về việc Chúa Giêsu được thụ thai cách trinh nguyên và việc Người chào đời từ cung lòng Đức Maria; các Tin Mừng nhắc lại những lời tiên tri về đấng thiên sai được ứng nghiệm nơi Người và nói về tư cách làm cha hợp pháp của Thánh Giuse, người đã tháp nhập Con Thiên Chúa vào “gốc rễ” của triều đại Đavít. Chúng ta được thấy Chúa Giêsu như một trẻ sơ sinh, một trẻ em và một thiếu niên, vâng lời cha mẹ, đồng thời ý thức được việc hoàn toàn tận hiến cho Chúa Cha và Vương quốc của Người. Sự khác biệt giữa hai Thánh sử là trong khi Luca kể lại các sự kiện qua cái nhìn của Đức Maria, thì Mátthêu lại kể lại qua cái nhìn của Thánh Giuse, nhấn mạnh vào mối quan hệ cha con chưa từng có trước đây.

Gia phả của Chúa Giêsu

Thánh Matthêu mở đầu Tin Mừng của ngài và toàn bộ Tân Ước bằng “gia phả Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít, con ông Abraham” (Mt 1,1) mà chúng ta vừa nghe. Đây là danh sách những cái tên đã có trong Kinh Thánh tiếng Do Thái, để chỉ ra sự thật về lịch sử và sự thật về đời sống con người. Trên thực tế, “gia phả của Chúa được tạo thành từ câu chuyện thật, bao gồm một số nhân vật ít nhất cũng có vấn đề, tội lỗi của Vua Đavít cũng được nhấn mạnh (xem Mt 1,6). Tuy nhiên, mọi sự đạt đến đỉnh điểm với Đức Maria và Chúa Kitô (xem Mt 1,16) (Thư về việc canh tân việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, ngày 21/11/2024). Sau đó, sự thật về sự sống con người xuất hiện, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang lại ba điều: một cái tên chứa đựng căn tính và sứ mạng duy nhất; thuộc về một gia đình và một dân tộc; và cuối cùng là sự trung thành với đức tin vào Thiên Chúa của Israel.

Không ai tự cho mình sự sống

Gia phả là một thể loại văn chương, tức là một hình thức thích hợp để truyền tải một thông điệp vô cùng quan trọng: không ai tự cho mình sự sống, nhưng nhận nó như một món quà từ người khác. Trong trường hợp này, chính dân tộc được tuyển chọn, và con người được thừa hưởng di sản đức tin từ tổ tiên họ, khi truyền lại sự sống cho con cái, cũng truyền cho chúng đức tin vào Thiên Chúa.

Những người nữ được nhắc đến trong gia phả của Chúa Giêsu

Tuy nhiên, không giống như các gia phả trong Cựu Ước, nơi chỉ có các tên của những người nam bởi vì ở Israel người cha đặt tên cho con cái, trong Tin Mừng Thánh Mátthêu, phụ nữ cũng xuất hiện trong danh sách tổ tiên của Chúa Giêsu. Chúng ta tìm thấy năm người trong số họ: bà Tamar, con dâu của ông Giuđa, người từng góa bụa, giả làm gái điếm để đảm bảo có con nối dõi cho chồng (xem St 38); bà Rakháp, gái điếm thành Giêricô, người đã cho phép các nhà thám hiểm Do Thái vào đất hứa và chinh phục nó (xem Gs 2); bà Rút, người Môáp, trong cuốn sách cùng tên, luôn trung thành với mẹ chồng, chăm sóc bà và sẽ trở thành bà cố của Vua Đavid; bà Bátsêba, người mà Vua Đavít đã cùng phạm tội ngoại tình và sau khi chồng bà bị giết, đã sinh ra Salômôn (xem 2 Sm 11); và cuối cùng là bà Maria người Nazareth, vợ của ông Giuse, thuộc nhà Đavít: bởi bà, Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, đã ra đời.

Bốn phụ nữ dân ngoại: Dân ngoại bước vào gia phả của Chúa Giêsu

Bốn người phụ nữ đầu tiên được liên kết với nhau không phải vì họ là tội nhân, như người ta thường nói, mà vì họ là dân ngoại: đối với dân Israel, họ là các phụ nữ dân ngoại. Điều mà Thánh Mátthêu làm nổi bật đó là, như Đức Biển Đức XVI đã viết, “qua họ, thế giới của Dân Ngoại bước vào... gia phả của Chúa Giêsu - sứ mạng của Người đến với người Do Thái và các Dân ngoại trở nên hữu hình” (Thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Milano-Città del Vaticano 2012, 15).

Mẹ Maria là một khởi đầu mới: Thiên Chúa đóng vai chính trong sự giáng sinh của Chúa Giêsu

Trong khi bốn người phụ nữ trước đó được nhắc đến cùng với người con trai được họ sinh ra hoặc với người đàn ông đã sinh ra người con, thì Đức Maria, ngược lại, lại nổi bật một cách đặc biệt: Mẹ đánh dấu một khởi đầu mới. Chính Mẹ là một khởi đầu mới, bởi vì trong câu chuyện của Mẹ, con người không còn đóng vai chính của việc sinh con, mà là chính Thiên Chúa. Điều này có thể thấy rõ từ động từ “chào đời”: “ông Giacóp sinh ra ông Giuse, chồng của bà Maria, bởi bà, Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô chào đời” (Mt 1,16). Chúa Giêsu là con vua Đavít, được Thánh Giuse tháp nhập vào triều đại đó và được định sẵn là Đấng Mêsia của dân Israel, nhưng Người cũng là con của tổ phụ Ápraham và của các phụ nữ ngoại quốc, do đó được Thiên Chúa định trở thành “Ánh sáng của dân ngoại” (xem Lc 2,32) và là “Đấng Cứu Thế” (Ga 4,42).

Thiên Chúa thật và người thật

Con Thiên Chúa, đã thánh hiến cho Chúa Cha với sứ mạng mặc khải gương mặt của Người (x. Ga 1,18; Ga 14,9), đã đi vào thế gian như tất cả con cái loài người, đến nỗi ở Nazareth, Người sẽ được gọi là “con ông Giuse” (Ga 6,42) hay “con trai bác thợ mộc” (Mt 13,55). Thiên Chúa thật và người thật.

Tạ ơn Chúa về Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy khơi dậy trong lòng mình những hồi ức biết ơn tổ tiên. Và trên hết chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, Đấng, qua Mẹ Giáo Hội, đã sinh chúng ta vào sự sống đời đời, sự sống của Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta. Cảm ơn anh chị em!

Buổi tiếp kiến kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

 

Tiếp kiến chung 11 tháng 12 năm 2024 - Kitô hữu phải chiếu tỏa niềm hy vọng cho người khác

Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 11/12/2024, Đức Thánh Cha nói rằng Chúa Thánh Thần là nguồn mạch luôn giữ cho niềm hy vọng sống động, là cánh buồm đưa con thuyền Giáo hội ra khơi giữa biển lịch sử. Sự hiện diện của Người trong cuộc sống của chúng ta giúp chúng ta không chỉ có niềm hy vọng mà còn lan tỏa hy vọng, mang hy vọng đến cho nhân loại đang rất cần nó. Ngài mời gọi các tín hữu hãy là những chứng nhân của niềm hy vọng không làm thất vọng!

Vatican News 

Bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 11/12/2024 là bài suy tư cuối cùng của loạt bài giáo lý về Chúa Thánh Thần và Giáo hội. Đức Thánh Cha đã dành bài suy tư để nói về chủ đề niềm hy vọng Kitô giáo, cũng là chủ đề của toàn bộ loạt bài giáo lý về Chúa Thánh Thần.

Đức Thánh Cha nói rằng hy vọng không phải là một nhân đức thụ động, vốn chỉ giới hạn ở việc chờ đợi sự việc xảy ra; nhưng là nhân đức tích cực, bởi vì Thánh Thần thúc đẩy để chúng ta đạt tới điều mong muốn. Ngài mời gọi các tín hữu đưa ra những lý do của niềm hy vọng sống, cách hiền hoà và với sự kính trọng. Bởi vì không phải sức mạnh của những lý lẽ sẽ thuyết phục được mọi người, mà là tình yêu thương mà chúng ta sẽ đặt vào đó. Đây là hình thức loan báo Tin Mừng đầu tiên và hiệu quả nhất. 

Như thường lệ, buổi tiếp kiến bắt đầu với đoạn Kinh Thánh, trích từ sách Khải huyền (22,17.20):

Thần Khí và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến!” Ai nghe, hãy lặp lại: “Xin Ngài ngự đến!” Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền. [...] Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến”. Amen, Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến!

Và sau đó Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài giáo lý như sau:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

“Maràna tha!”

Chúng ta đã đi đến phần cuối của loạt bài giáo lý về Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Chúng ta dành suy tư cuối cùng này cho tựa đề mà chúng ta đã đặt cho toàn bộ chu kỳ giáo lý - “Thánh Thần và Tân Nương. Chúa Thánh Thần hướng dẫn Dân Chúa đến gặp Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta”. Tựa đề này đề cập đến một trong những câu cuối cùng của Kinh Thánh, trong Sách Khải Huyền; Sách này viết: “Thần Khí và Tân Nương nói: ‘Xin Ngài ngự đến!’” (Kh 22,17). Lời này cầu khẩn với ai? Với Chúa Kitô phục sinh. Thật vậy, cả Thánh Phaolô (x. 1 Cr 16,22) và Sách Didache, một tác phẩm từ thời các tông đồ, đều chứng thực rằng trong các cuộc gặp gỡ phụng vụ của các Kitô hữu tiên khởi vang lên tiếng kêu bằng tiếng Aramaico “Maràna tha!”, nghĩa là "Lạy Chúa xin ngự đến!" Một lời cầu xin Chúa Kitô ngự đến.

Giáo hội mong đợi Chúa đến

Vào thời cổ xưa đó, lời khẩn cầu có một bối cảnh mà ngày nay chúng ta gọi là cánh chung. Thực ra, nó diễn tả niềm mong mỏi tha thiết về cuộc quang lâm của Chúa. Tiếng kêu này và sự mong đợi mà nó diễn tả chưa bao giờ hết trong Giáo hội. Ngay cả ngày nay, trong Thánh Lễ, ngay sau khi truyền phép, Giáo hội vẫn công bố sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô “trong khi chờ đợi Người đến”. Giáo hội mong đợi Chúa đến.

Nhưng mong đợi về lần đến sau cùng của Chúa Kitô không còn chỉ là mong đợi một lần và duy nhất nữa. Nó cũng được kết hợp với việc mong chờ Người tiếp tục đến trong hoàn cảnh lữ hành và hiện tại của Giáo hội. Và Giáo Hội, trên hết, nghĩ đến việc Người đến này, khi được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần, kêu lên với Chúa Giêsu: “Xin ngự đến!”.

“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến”

Đã có một thay đổi – hay đúng hơn là một sự phát triển – đầy ý nghĩa liên quan đến lời kêu xin “Xin ngự đến!”, “Lạy Chúa, xin ngự đến!”. Tiếng kêu này thường không chỉ hướng về Chúa Kitô, mà còn hướng đến chính Chúa Thánh Thần! Đấng kêu lên bây giờ cũng là Đấng mà chúng ta kêu cầu. “Xin ngự đến!” là lời kêu cầu mở đầu của hầu hết các bài thánh ca và lời cầu nguyện của Giáo hội hướng về Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến”, chúng ta đọc trong Kinh Veni Creator (Lạy Đấng Sáng Tạo, xin ngự đến), và “Veni Sancte Spiritus” (Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến) trong ca Tiếp liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống; và cũng trong nhiều lời cầu nguyện khác. Và đúng là như vậy, bởi vì, sau khi Phục Sinh, Chúa Thánh Thần là “hữu thể khác” thực sự của Chúa Kitô, Đấng thay thế Người, làm cho Người, hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Chính Người, là Đấng “báo trước những điều sẽ xảy đến” (x. Ga 16,13) và khiến chúng được Giáo hội khao khát và chờ đợi. Đây là lý do tại sao Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần không thể tách rời, ngay cả trong nhiệm cục cứu độ.

Chúa Thánh Thần là nguồn hy vọng của người Kitô hữu

Chúa Thánh Thần là nguồn hy vọng luôn tuôn trào của người Kitô hữu. Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những lời quý giá này: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15,13). Nếu Giáo hội là một con thuyền thì Chúa Thánh Thần là cánh buồm đẩy nó và đưa nó tiến lên trong biển lịch sử, hôm nay cũng như trong quá khứ!

Hy vọng là một điều chắc chắn, dựa trên lời hứa trung thành của Thiên Chúa

Hy vọng không phải là một từ trống rỗng, hay ước muốn mơ hồ của chúng ta khi muốn mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp nhất. Hy vọng là một điều chắc chắn, bởi vì nó dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Người. Đây là lý do tại sao hy vọng được gọi là nhân đức đối thần: bởi vì nó được Thiên Chúa thông ban và có Thiên Chúa bảo đảm. Đó không phải là một nhân đức thụ động, chỉ chờ đợi sự việc xảy ra. Đây là một nhân đức rất tích cực, sẽ giúp thực hiện những điều đó. Có một người đấu tranh giải phóng người nghèo đã viết những lời này: “Chúa Thánh Thần là nguồn gốc tiếng kêu của người nghèo. Đó là sức mạnh được trao cho những người không có sức mạnh. Người lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng và sự hoàn thành trọn vẹn của các dân tộc bị áp bức”[1].

Hy vọng là món quà đẹp nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho nhân loại

Người Kitô hữu không thể hài lòng với việc “có” niềm hy vọng; họ còn phải “chiếu tỏa” niềm hy vọng, là người gieo mầm hy vọng. Đó là món quà đẹp nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho toàn thể nhân loại, đặc biệt trong những thời điểm mà mọi thứ dường như đều thúc đẩy chúng ta hạ cánh buồm xuống.

Yêu thương là là hình thức loan báo Tin Mừng đầu tiên và hiệu quả nhất

Thánh Tông đồ Phêrô đã khuyên nhủ các Kitô hữu tiên khởi bằng những lời này: “Hãy tôn thờ Đức Kitô, Đấng ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em”. Nhưng ngài thêm lời khuyên nhủ: “Trên hết, phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng” (1Pt 3,15-16). Đúng vậy, bởi vì không phải sức mạnh của những lý lẽ sẽ thuyết phục được mọi người, mà là tình yêu thương mà chúng ta sẽ đặt vào đó. Đây là hình thức loan báo Tin Mừng đầu tiên và hiệu quả nhất. Và nó mở cửa cho tất cả mọi người!

Anh chị em thân mến, xin Chúa Thánh Thần luôn giúp chúng ta “tràn đầy niềm hy vọng nhờ Chúa Thánh Thần”! Cảm ơn anh chị em!

 

[1] J. Comblin, Chúa Thánh Thần và sự giải phóng, Assisi 1989, 236.

 

Tiếp kiến chung ngày 4/12/2024 - Rao giảng Tin Mừng là rao giảng về Chúa Kitô chứ không phải về chính mình

Trong buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ Tư ngày 4/12/2024, Đức Thánh Cha nói rằng để có thể cộng tác vào hoạt động truyền giáo của Giáo hội, các tín hữu nhớ đến hai nguyên tắc: một là cầu nguyện và hai là chú ý không rao giảng chính mình nhưng là rao giảng về Chúa Giêsu. Nghĩa là, trước khi bắt đầu hoạt động tông đồ, chúng ta cần cầu nguyện, khẩn cầu Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta. Và sứ vụ đó phải tập trung vào Chúa Kitô, chứ không phải vào những mong muốn hay nhu cầu của chúng ta.

Vatican News 

Tiếp tục loạt bài giáo lý về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô cùng suy tư về mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói rằng trong việc rao giảng Kitô giáo có hai yếu tố: nội dung là Tin Mừng; và kênh truyền tải là Chúa Thánh Thần. Cả hai có mối liên hệ chặt chẽ với nhau; nghĩa là, Lời Chúa được truyền lại bằng việc xức dầu của Chúa Thánh Thần.

Do đó, để có thể cộng tác vào hoạt động truyền giáo của Giáo hội, Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu nhớ đến hai nguyên tắc: một là cầu nguyện và hai là chú ý không rao giảng chính mình nhưng là rao giảng về Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là, trước khi bắt đầu hoạt động tông đồ, chúng ta cần cầu nguyện, khẩn cầu Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta. Và sứ vụ đó phải tập trung vào Chúa Kitô, chứ không phải vào những mong muốn hay nhu cầu của chúng ta.

Trước khi Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý, cộng đoàn cùng nghe đoạn thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi các tín hữu Côrintô (1 Cr 2,1.4-5):

Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, [...] tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.

Sau đó, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý như sau:

Hai yếu tố của việc rao giảng Kitô giáo: Phúc Âm và Chúa Thánh Thần

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Sau khi suy tư về tác động thánh hóa và tác động qua các đặc sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta dành bài giáo lý này nói về một khía cạnh khác: hoạt động loan báo Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, nghĩa là vai trò của Người trong việc rao giảng của Giáo hội.

Thư thứ nhất của Thánh Phêrô định nghĩa các tông đồ là “những người loan báo Tin Mừng nhờ Chúa Thánh Thần” (x. 1,12). Trong cách diễn đạt này, chúng ta tìm thấy hai yếu tố cấu thành việc rao giảng của Kitô giáo: nội dung của lời rao giảng, là Tin Mừng, và phương tiện chuyển tải, là Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy nói về hai điều này.

Kerygma - lời loan báo ban đầu: trung tâm của lời rao giảng

Trong Tân Ước, từ “Phúc Âm” có hai ý nghĩa chính. Từ này có thể nói đến từng sách Phúc Âm trong số bốn Phúc Âm theo quy điển: Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan, và theo nghĩa này, Phúc Âm có nghĩa là tin mừng được Chúa Giêsu công bố trong cuộc đời trần thế của Người. Sau khi Chúa Phục Sinh, từ “Phúc Âm” mang ý nghĩa mới là tin mừng về Chúa Giêsu, tức là mầu nhiệm vượt qua, sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đây là điều mà Thánh Tông Đồ gọi là “Phúc Âm”, khi ngài viết: “Tôi không hổ thẹn về Tin Mừng, vì đó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu những ai tin” (Rm 1,16).

Lời rao giảng của Chúa Giêsu và sau đó của các Tông đồ cũng chứa đựng tất cả những bổn phận luân lý phát xuất từ Phúc Âm, bắt đầu từ mười điều răn cho đến điều răn “mới” về tình yêu thương. Nhưng nếu chúng ta không muốn rơi lại vào sai lầm mà Thánh Phaolô đã lên án, đó là đặt luật lệ trên ân sủng và việc làm trên đức tin, thì cần phải luôn bắt đầu lại từ việc loan báo những gì Chúa Kitô đã làm cho chúng ta. Đó là lý do tại sao trong Tông huấn “Evangelii gaudium” (Niềm vui Tin Mừng), tôi đã nhấn mạnh rất nhiều đến điều đầu tiên trong hai điều, tức là kerygma, hay là “lời loan báo”, nền tảng của mọi áp dụng luân lý.

Thực ra, “trong việc dạy giáo lý, lời loan báo đầu tiên hay kerygma có một vai trò cơ bản, phải chiếm vị trí trung tâm của hoạt động rao giảng Tin Mừng và của mọi ý định canh tân Giáo hội. […] Khi chúng ta nói rằng lời loan báo này là “đầu tiên”, điều này không có nghĩa là nó xuất hiện lúc ban đầu và sau đó có thể bị quên đi hoặc bị thay thế bằng những nội dung khác hay hơn. Đây là lời loan báo đầu tiên theo nghĩa chất lượng, bởi vì nó là lời loan báo chính yếu, lời loan báo mà chúng ta phải luôn nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau và chúng ta phải luôn tái công bố trong các bài giáo lý dưới hình thức này hay hình thức khác, trong mọi giai đoạn và mọi thời điểm của nó. […] Chúng ta không nên nghĩ rằng trong việc dạy giáo lý phải bỏ kerygma để chọn một cách đào luyện có vẻ “chắc chắn” hơn. Không có gì chắc chắn hơn, sâu sắc hơn, an toàn hơn, thực chất hơn và khôn ngoan hơn lời loan báo ban đầu này”, nghĩa là kerygma (số 164-165).

Rao giảng dựa vào sự xác thực của Thánh Thần

Đến đây chúng ta đã thấy nội dung của việc rao giảng của Kitô giáo. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải ghi nhớ cách thức loan báo. Phúc Âm phải được rao giảng “nhờ Chúa Thánh Thần” (1Pt 1,12). Giáo Hội phải thực hiện chính xác những gì Chúa Giêsu đã nói khi bắt đầu sứ vụ công khai của Người: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi; vì thế Người đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Lc 4,18). Rao giảng với sự xức dầu của Chúa Thánh Thần có nghĩa là truyền đạt, cùng với các ý tưởng và đạo lý, đời sống và xác tín đức tin của chúng ta. Nó có nghĩa là không dựa vào “những lời nói thuyết phục của sự khôn ngoan, nhưng vào sự biểu lộ của Thần Khí và quyền năng của Người” (1Cr 2,4), như Thánh Phaolô đã viết.

Cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần

Chúng ta có thể phản đối rằng nói thì dễ, nhưng làm sao có thể áp dụng điều này vào thực tế nếu nó không phụ thuộc vào chúng ta mà phụ thuộc vào việc Chúa Thánh Thần ngự đến? Trên thực tế, có một điều phụ thuộc vào chúng ta, hay đúng hơn là hai điều, và tôi sẽ đề cập ngắn gọn về chúng. Đầu tiên là cầu nguyện. Chúa Thánh Thần đến với những người cầu nguyện, bởi vì Cha trên trời - như đã viết – “ban Chúa Thánh Thần cho những ai cầu xin Người” (Lc 11,13), đặc biệt nếu chúng ta cầu xin Người để loan báo Tin Mừng của Con của Người! Khốn cho việc rao giảng mà không cầu nguyện! Nó sẽ trở thành điều mà Thánh Tông đồ định nghĩa là “thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (x. 1 Cr 13,1).

Rao giảng về Chúa Kitô chứ không rao giảng về mình

Vì vậy, điều đầu tiên phụ thuộc vào chúng ta là cầu nguyện, để Chúa Thánh Thần ngự đến. Điều thứ hai là không muốn rao giảng về chính mình, nhưng là về Chúa Giêsu (x. 2 Cr 4,5). Không cần thiết phải nói dài về điều này, bởi vì bất cứ ai tham gia vào việc truyền giáo đều biết rõ, trên thực tế, không rao giảng chính mình có nghĩa là gì. Tôi giới hạn vào một áp dụng cụ thể của yêu cầu này. Không muốn rao giảng về chính mình cũng có nghĩa là không luôn dành ưu tiên cho các sáng kiến ​​mục vụ do chúng ta khởi xướng và gắn liền với tên tuổi của mình, nhưng sẵn sàng cộng tác, nếu được yêu cầu, trong các sáng kiến ​​cộng đồng, hoặc được ủy thác cho chúng ta, bằng sự vâng phục.

Xin Chúa Thánh Thần giúp đỡ, đồng hành với chúng ta và dạy Giáo hội rao giảng Phúc Âm cho những người nam nữ của thời đại này! Cảm ơn anh chị em!

Buổi tiếp kiến kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

 

Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ quan tâm đến sự hiệp thông, khó nghèo và phục vụ

Đức Thánh Cha mời gọi các nữ tu Dòng Chúa Thánh Thần ở Sassia, Roma, và các cộng đoàn sống đặc sủng của Chân phước Guido di Montpellier, trong buổi tiếp kiến sáng thứ Năm, ngày 05 tháng 12 năm 2024, chú ý đến sự hiệp thông, khó nghèo và phục vụ.

Vatican News

Quy luật của Chân phước Guido bắt đầu nhân danh Ba Ngôi nhằm đề xuất với tất những ai là hiện tại và tương lai của Hội dòng một dự án cống hiến trước hết cho việc chăm sóc và phục vụ người nghèo. Từ đây, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người suy tư về ba khía cạnh: hiệp thông, khó nghèo và phục vụ.

Đức Thánh Cha giải thích, trong quy luật của Dòng Chúa Thánh Thần, lời khấn khó nghèo được thể hiện một các đặc biệt: không có gì là của riêng. Cách diễn đạt này muốn nói rằng chúng ta là khách trong Nhà Chúa Ba Ngôi, Đấng chào đón chúng ta, chia sẻ điều này với người nghèo mà chúng ta được mời gọi phục vụ, noi gương Giáo hội tiên khởi “tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung” (Cv 2, 44).

Bằng cách này, đời sống huynh đệ vượt xa việc chia sẻ không gian, nhiệm vụ và phục vụ. Đó là việc hiến dâng toàn thân cho Chúa trong anh chị em, không giữ điều gì cho riêng mình. Chỉ khi bắt đầu bằng sự tự do này, chúng ta mới có thể cùng nhau bắt đầu thực hiện một dự án, trong đó chúng ta là dấu chỉ của sự cánh chung, hành trình hướng tới ngôi nhà đời đời nơi Chúa mời gọi chúng ta đến cư ngụ.

Một hành trình hướng về Chúa, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, trong đó chúng ta trở thành những người theo Chúa Kitô Cứu Thế. Và khi nói về Chúa Kitô chúng ta không quên rằng Người là Đấng đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, là mẫu gương của chúng ta.

Đức Thánh Cha kết thúc bài nói chuyện với lời cầu nguyện hướng về Mẹ Maria, “xin Mẹ nâng đỡ anh chị em trong cuộc hành trình để làm cho tâm hồn anh chị em và cộng đoàn trở thành đền thờ của Ba Ngôi Rất Thánh”.

 

Đức Thánh Cha mời gọi thể hiện tình yêu của Chúa trong việc đạo đức và bác ái

Vào ngày 4/12/2024, Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp gửi đến Đại hội các Huynh đoàn và Lòng Đạo đức Bình dân được tổ chức tại thành phố Sevilla của Tây Ban Nha và mời gọi họ thể hiện tình yêu của Chúa trong việc đạo đức và bác ái.

Vatican News

Mở đầu sứ điệp, Đức Thánh Cha nhìn nhận lòng đạo đức độc đáo của người dân Seviila, những người “sống nhiệt thành trong việc thể hiện đức tin cho đến khi việc này trở thành một phần không thể thiếu trong cấu trúc xã hội của họ”. Ngài lưu ý rằng đức tin mạnh mẽ này không chỉ là một hành trình cá nhân mà còn là một hành trình cộng đồng định hình nên cuộc sống của Giáo hội.

Đưa Chúa Kitô vào thế giới

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng hiệu quả thực sự của lòng đạo đức bình dân nằm ở sức mạnh đưa Chúa Kitô vào thế giới. Ngài trích dẫn Thánh Manuel González, người đã mô tả cuộc sống Kitô hữu là “một hành trình khứ hồi; nó bắt đầu, hành trình đi đến với tha nhân, trong Chúa Kitô và kết thúc nơi con người, và bắt đầu nơi con người, hành trình trở về, và kết thúc trong Chúa Kitô”. Ngài giải thích rằng hành trình này thể hiện trọng tâm sứ mạng của Giáo hội là đưa mọi người đến gần Chúa hơn.

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến sự hiệp nhất được tìm thấy trong sự đa dạng của những lòng đạo đức này. Ngài mô tả “nhiều đặc điểm, thừa tác vụ và nhiệm vụ, với sự kiên trì và nhẫn nại, hòa hợp với nhau như thế nào”. Ngài lưu ý rằng cho dù là vác thập giá hay chỉ đơn giản là đồng hành trong lời cầu nguyện, “đó là cùng một lòng nhiệt thành, cùng một tình yêu”, tạo nên sự hòa hợp tập thể để bộc lộ “vẻ đẹp của Chúa Kitô”. Sau đó, ngài kêu gọi các tín hữu tiếp tục đưa Chúa Kitô ra đường phố, để tất cả mọi người có thể “ngắm nhìn vẻ đẹp của Người”.

"Điên vì tình yêu dành cho Chúa”

Sau đó, khi nói về “những giọt nước mắt rơi” trong những khoảnh khắc đạo đức, Đức Thánh Cha gọi những hành động đau buồn và yêu thương này là “điên vì tình yêu dành cho Chúa”, điều có vẻ khó hiểu đối với một số người nhưng lại là một chứng tá mạnh mẽ của đức tin. Ngài trích dẫn Thánh Manuel một lần nữa khi ngài nói rằng, “người dân [...] khao khát chân lý, tình cảm, hạnh phúc, công lý, thiên đàng và có lẽ, không nhận ra đó là khao khát Thiên Chúa”. Ngài thúc giục các tín hữu đáp lại cơn đói này thông qua các hoạt động bác ái, mang sự dịu dàng của Chúa đến với những người đau khổ về thể xác và tâm hồn. Ngài nói thêm rằng những việc đạo đức không chỉ là nghi lễ mà còn là cách mang tình yêu của Chúa Kitô vào thế giới.

 

 

 

 

December 18, 2024

vaticannews.va