23. Lưu Ngụ Tại Ai Cập
Sau
khi đã dừng lại ít lâu trong một vài thành phố quan trọng như
Memphi, Matariê, Thánh Gia ở hẳn tại Hêliôpôli. Thánh
Giuse mua được ở đó một căn nhà nghèo, chẳng có một đồ vật
nào, và ở khá xa thành phố, theo như ước muốn của Thánh Nữ
Đồng Trinh. Vừa vào nhà ấy, Mẹ Maria cúi hôn đất cách khiêm
nhượng sâu xa và tri ân thắm thiết. Mẹ hứa với Thiên Chúa
là sẽ hân hoan chịu đựng tất cả những đau khổ Ngài gửi đến
cho Mẹ trong nơi đầy ải này. Mượn được một cái chổi, và có
thiên thần giúp, Mẹ quét tước dọn dẹp căn nhà khiêm hèn này.
Nhưng chẳng còn một chút lương thực nào. Đã ngụ trong một
xứ có đông người ở, Mẹ xét không nên cầu xin ơn cứu trợ lạ
lùng như lúc còn rong ruổi trong sa mạc nữa. Thế nên, Thánh
Giuse, vì yêu mến Chúa, đã đi xin người ta bố thí. Cơm bánh
đi xin được ấy nuôi sống Thánh Gia suốt ba ngày, cũng như
trước đó đã có lần đi xin ăn ở các nơi khác trên đất Ai Cập.
Khi Thánh Giuse đã kiếm được việc làm, dành dụm được chút
tiền, Ngài làm một cái phản cho Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi.
Còn Ngài vẫn nằm đất.
Trong cảnh rất khốn cùng ấy, Thánh Gia không hề tiếc nhớ
dĩ vãng, cũng không hề lo sợ cho tương lai, mà chỉ một niềm
hân hoan và bình thản phó thác mặc Chúa Quan Phòng.
Căn
nhà nhỏ nghèo ấy có ba gian. Một gian dành cho Chúa Hài Nhi
và Mẹ, một gian làm phòng cho Thánh Giuse, còn một gian
là chỗ làm việc của Ngài. Mẹ Maria cũng muốn lao động để
cộng tác vào cuộc sống gia đình. Có mấy phụ nữ tốt lành thấy
Mẹ
đoan trang nhu mì yêu quý, nên tìm việc đem đến cho Mẹ làm.
Việc nào Mẹ cũng làm rất hoàn hảo, nên tiếng đồn lan rộng.
Mẹ không bao giờ thiếu việc làm.
Chính
Chúa Hài Nhi vạch một thời dụng biểu cho Mẹ. Vào lúc chín giờ
tối, Mẹ đi ngủ. Nửa đêm thức dậy cầu nguyện và suy
gẫm cho tới sáng. Ban ngày làm việc suốt, vì Mẹ không muốn
làm phép lạ để nuôi sống gia đình. Trong khi làm việc, Mẹ quỳ
bên nôi Chúa Giêsu, vừa làm vừa thủ thỉ nói chuyện với Chúa,
thỉnh thoảng hát lên những ca vịnh rất hay, hay hơn cả ca vịnh
Giáo hội hát ngày nay, vì Nhân Tính của Chúa Ngôi Hai còn soi
sáng cho Mẹ một cách tuyệt vời hơn đã soi sáng cho Maisen,
cho Đavít và cho các thánh ký khác. Thú giải lao êm dịu nhất
của Mẹ là bồng ẵm Con chí ái. Mẹ cũng rất hay trao Chúa Hài
Nhi cho Thánh Cả Giuse ẵm, để làm vui lòng Người Bạn rất đáng
kính của mình. Lúc ấy Mẹ nói với Chúa Hài Nhi và với Thánh
Cả: "Hỡi
Con là Chúa của Mẹ, xin Con hãy yêu đương nhìn tôi tớ của Con
kia, mà vui với linh hồn trong trắng của Người. Và Giuse Bạn
mến, xin bế lấy Đấng Sáng Tạo vũ trụ, Ngài sẽ làm êm nghỉ những
lao nhọc Thầy đã phải chịu vì việc làm". Cả trong lúc dùng bữa, Mẹ Maria cũng rất ân cần, không hề rời mắt khỏi Chúa
Hài Nhi chí ái Mẹ ẵm trên tay, và luôn luôn tỏ lòng tôn kính
Ngài cách trìu mến nhất.
Mẹ
cứ thế mà chuẩn bị thể hiện lòng nhiệt thành của Mẹ trong thành
phố Hêliôpôli rất đông dân cư. Khi Chúa Giêsu vừa đến,
các ngẫu tượng và chùa chiền của họ bị phá huỷ và đổ vỡ, nên
toàn thể dân thành đều hoang mang. Nhiều người, cả nam cả nữ,
đến thăm Thánh Gia, vừa để kể lại sự kinh khiếp của mình, vừa
để thoả tính hiếu kỳ. Mẹ đón tiếp họ niềm hở và chữa một vài
tật bệnh. Tiếng đồn về quyền năng kỳ diệu đó đã lôi cuốn đến
rất nhiều người, nên Mẹ phải xin Chúa Hài Nhi chỉ bảo cho biết
phải làm gì. Theo lời Chúa dẫn, Mẹ tiếp đón hết mọi người.
Mẹ dạy cho họ biết về Thiên Chúa chân thật, về bổn phận phải
chu toàn đối với Ngài, về ác tính của ma quỷ và tội lỗi. Mẹ
soi cho họ biết phải gớm ghét tội lỗi và ma quỷ như thế nào.
Mẹ cũng nói cả về Đấng Cứu Chuộc loài người xuống thế, nhưng
Mẹ không nói rõ Đấng ấy là ai. Mẹ an ủi người bệnh tật, chính
Mẹ băng bó vết thương cho họ, giải thoát những kẻ bị quỷ ám
và trị liệu mọi thứ bệnh. Vì thế, suốt trong bảy năm lưu ngụ
tại Ai Cập, Mẹ đã làm rất nhiều sự lạ và quy hồi
rất nhiều người, muốn kể lại cho hết phải viết rất nhiều cuốn
sách. Trong lúc nói, Mẹ luôn ẵm bế Chúa Hài Nhi, nên ân sủng
toàn năng của Chúa đã làm nên bấy nhiêu phép lạ. Khi phải săn
sóc bệnh nhân, không thể bế Chúa được, Mẹ đặt Ngài vào nôi.
Một điều rất đáng thán phục là dầu đã làm bấy nhiêu việc, dầu
nói với bấy nhiêu người, cũng không bao giờ Mẹ nhìn mặt một
người nào cả.
Ai
Cập là một xứ quá nóng, nên luân lý rất đồi bại, thế nên thường
gây ra những tật bệnh khủng khiếp. Ba năm sau khi Thánh
Gia ở Ai Cập, một trận dịch đã tàn phá thành phố Hêliôpôli
và nhiều nơi khác. Lúc đó, người ta đến xin Mẹ chữa quá đông,
nên Mẹ phải xin Chúa Hài Nhi ban cho cả Thánh Giuse cũng được
quyền làm phép lạ chữa các bệnh tật. Thánh Giuse đã chữa cho
nam giới, còn Mẹ Maria chữa cho nữ giới. Ai đến với Thánh Gia
cũng đã trở về lành mạnh cả xác cả hồn.
Người
ta nhớ ơn, nên thỉnh thoảng đem lễ tạ rất hậu. Mẹ Maria phân
chia cho người nghèo những lễ vật mà phép lịch sự không
cho phép từ chối ấy. Không bao giờ Mẹ nhận chút gì cho mình,
Mẹ chỉ muốn sống nhờ công việc đôi tay Mẹ làm ra. Đã thế, rất
nhiều lần Mẹ còn đem tặng cả công lao mình làm ra ấy cho người
nghèo nữa.
Những
nguồn vui siêu nhiên đó tiếp theo một sự kiện xé nát lòng xảy
ra tại Belem. Hêrôđê đã cho tầm nã Thánh Gia, và vì
không tìm được nên ông ta nổi cơn cuồng giận đến say máu. Ông
ra lệnh giết tất cả những ấu nhi dưới hai tuổi trong vùng Belem,
với thâm tín là Đấng Tân Vương của người Do Thái cũng bị hạ
sát trong số những trẻ ấy. Việc tàn sát này xảy ra sáu tháng
sau khi Chúa Giêsu sinh ra. Lúc đó, Mẹ đang ẵm Hài Nhi trên
tay. Qua tâm hồn Chúa như qua một tấm gương Mẹ nhìn thấy tất
cả mọi chi tiết của tấm bi kịch tàn bạo rùng rợn đó. Vì lời
cầu nguyện của Hài Nhi Giêsu Cứu Thế, những trẻ em, trong số
đó có những em mới sinh được tám ngày, đều được ơn dùng trí
khôn thi hành các nhân đức hướng thần, và nhận thức được nguyên
nhân thiêng liêng việc mình bị giết, nên tất cả đều được phúc
tử đạo. Tất cả đều tình nguyện dâng mình chịu chết vì vinh
danh Thiên Chúa. Cha mẹ các vị thánh anh nhi đó, mặc dầu đau
đớn vỡ trái tim và chan hoà nước mắt, cũng được Chúa ban cho
có những tâm tình y như con mình vậy. Chúa Hài Nhi
Cứu Thế hiến dâng lên Thiên Chúa tất cả các lễ hi sinh đó làm
lễ đầu mùa của hi sinh chính Ngài sẽ dâng mình Ngài sau này.
Thánh Nữ Đồng Trinh hợp nhất với tất cả các hành vi đó, với
tất cả mọi đau đớn đó, nên Mẹ đã trở nên bà Rachel thực sự
than khóc các trẻ em bị giết ở Belem mà Mẹ nhận làm con của
Mẹ. Nhưng Mẹ rất được an ủi khi thấy các thiên thần dẫn những
linh hồn anh nhi tử đạo đó xuống u ngục. Cuộc khải hoàn vào
u ngục của các linh hồn trẻ thơ đó gây một niềm hân hoan vĩ
đại trong ngục tổ, vì cuộc khải hoàn đó báo tin cuộc giải phóng
gần kề. Hứng khởi yêu đương, Mẹ Maria đã cao tiếng hát lên
thánh vịnh 112: "Hỡi các trẻ em, hãy ca tụng Thiên Chúa".
Tuy
nhiên, Mẹ vẫn tự hỏi về số phận của Gioan Tiền sứ, nên Chúa
Giêsu Hài Nhi đã tỏ cho Mẹ biết việc xảy ra cho ông. Tư
tế Giacaria đã qua đời sau khi Chúa sinh ra bốn tháng, tức
gần ba tháng sau khi Thánh Gia rời Giêrusalem. Bà Elisave,
vì được thiên thần của Mẹ đến báo tin, nên đã đem con mình
trốn vào một hang đá trong rừng vắng. Bà sẽ qua đời tại đó
sau ba năm sống giữa muôn ngàn thiếu thốn và bất tiện. Nhà
Tiền sứ của Chúa, còn phải ở lại đó cho tới khi được gọi đi
làm sứ mệnh của mình. Biết như thế, nên từ đó được Chúa Hài
Nhi vui lòng cho phép, Mẹ thường phái các thiên thần hầu cận
mình đến thăm viếng mẹ con bà ẩn sĩ ấy, và mang chút ít lương
thực đến giúp. Khi thánh nữ Elisave từ trần, các thiên thần
đã an táng bà trong rừng vắng ấy và coi sóc con trẻ Gioan.
Mẹ Maria, qua trung gian các thiên thần, đã chu cấp cho Gioan
đến tuổi khôn lớn, có thể tự tìm được cỏ cây, củ rễ và mật
rừng để sống theo như ý Chúa muốn.
Phần
Chúa Hài Nhi Giêsu, Chúa vẫn là hạnh phúc cho Mẹ Maria và Thánh
Giuse trong cảnh tha hương lưu đầy. Vừa đầy tuổi,
Chúa ban cho người Cha Đồng Trinh của Chúa được niềm an ủi
nghe tiếng Chúa nói. Một hôm lúc Ngài đang nói chuyện với Mẹ
Maria về những vẻ đẹp của mầu nhiệm Nhập Thể, từ trên tay Mẹ,
Chúa Hài Nhi ghé sang nói với Thánh Cả: "Cha
ơi, Con từ trời xuống để làm ánh sáng soi cho thế giới. Con
muốn cả Cha cả Mẹ cùng là con của Ánh Sáng, vì Cha Mẹ ở rất
gần Con". Những lời đó rót vào trái tim Thánh Cả một niềm tôn kính, một tình yêu mến,
và một nguồn vui khôn tả. Thánh Cả quỳ xuống trước mặt Chúa
Giêsu, cảm tạ Chúa vì đã gọi mình là Cha, và dàn dụa nước mắt
mà xin Chúa cứ dùng mình làm hết những gì đẹp lòng Chúa nhất.
Cũng
vào giai đoạn này, Đức Trinh Nữ Rất Thánh nghĩ đã đến lúc loại
bỏ khăn lót cho Chúa Hài Nhi, nên Mẹ quỳ xuống trước
mặt Chúa mà nói: "Con
rất yêu dấu của linh hồn Mẹ, có cần phải tháo gỡ Con khởi những
xiềng xích này không? Xin Con nói cho Mẹ biết Mẹ phải làm thế
nào bây giờ". Chúa Hài Nhi thưa với Mẹ: "Thưa Mẹ, vì yêu các linh hồn, Con chẳng thấy những xiềng xích này bất tiện chút
nào cả. Vì yêu các linh hồn, đến tuổi tráng niên, Con sẽ còn
bị bắt bị trói và bị đóng đanh vào khổ giá kia mà. Vì thánh
ý Cha Con, nghĩ tới đó, Con rất vui sướng, nên mọi bất tiện
khác con đều lấy làm dễ dàng cả. Về y phục của Con, Con chỉ
cần có một áo độc nhất thôi, để dạy cho loài người biết từ
bỏ những cái thừa thãi. Vì thế, Mẹ sẽ đan cho con một áo mặc
trong, nó rộng ra theo tầm vóc lớn dần của Con. Sau này, lúc
Con chết, người ta sẽ bắt thăm với nhau áo đó, để cho loài
người biết rằng Con đã tuyệt đối thực thi đức nghèo, mặc dầu
mọi sự trong vũ trụ này đều là của Con, và để loài người noi
gương Con mà yêu thích sống nghèo khó". Mẹ Maria nói: "Nhưng, hỡi Con Mẹ, Con là Chúa của Mẹ, Mẹ không có can đảm để Con đi chân không
khi còn thơ bé thế này! Nên Mẹ xin phép Con cho Mẹ được sắm
cho Con một đôi giầy. Ngoài ra, Mẹ thấy rằng: cái áo thô Con
nói đó sẽ không tiện nhiều cho da thịt còn non nớt của Con,
nếu Con không mặc thêm một áo lót trong". Chúa Hài Nhi không ưng mà nói rằng: "Vâng, Con bằng lòng có một đôi giầy thô nghèo để sau này đi giảng đạo. Nhưng
Con không chấp nhận mặc áo lót, để khuyến khích những người
một ngày kia sẽ vì yêu Con mà từ bỏ nó".
Mẹ
Maria bắt tay vào việc ngay. Kiếm được một mớ len chưa chuội,
chưa nhuộm, Mẹ đem dệt một áo mặc trong không có đường chỉ.
Theo ý Chúa, Mẹ đem giãi cho nó mất mầu tự nhiên đi, trở thành
màu xam xám. Mẹ cũng làm một đôi dép bằng chỉ khá to và một
chiếc quần cộc cho Chúa mặc bên trong.
Khi
đã làm xong, Mẹ quỳ gối xuống trước mặt Chúa Giêsu, thưa với
Người rằng: "Hỡi
Con rất cao cả, Mẹ muốn lấy những thớ sợi của Trái Tim Mẹ làm
bộ y phục này. Xin Con tha cho Mẹ nếu chúng có gì khuyết điểm,
và cho phép Mẹ mặc vào cho Con".
Chúa
Giêsu không bao giờ cởi bỏ những áo quần ấy. Chúng lớn lên
với Chúa và cứ lành lặn y nguyên, không sờn rách, không
dây vết, không phai mầu. Chiếc áo Chúa Giêsu sẽ cởi ra sau
này lúc rửa chân cho các tông đồ là một áo choàng ngoài cũng
có những đặc tính y như áo mặc trong.
Mặc
y phục đó rồi, Chúa Hài Nhi đứng lên, toả ra một vẻ đẹp say
sưa, rồi một mình bước đi trước niềm hân hoan lớn lao của
Mẹ và Thánh Giuse. Mẹ Maria vẫn tiếp tục nuôi sữa Chúa Hài
Nhi cho tới khi Chúa được một năm rưỡi. Sau đó, Mẹ dọn cho
Chúa chút thức ăn nhẹ, mỗi ngày ba lần, sáng, trưa và tối.
Khi đã lớn, Chúa dùng bữa với Mẹ và Thánh Giuse. Chính Chúa
làm phép của ăn lúc đầu bữa và cảm ơn sau bữa.
Khi
đã biết đi rồi, Chúa rút vào ẩn trong phòng cầu nguyện của
Mẹ. Mẹ hỏi xem Chúa có muốn cho Mẹ cầu nguyện với Chúa
không, Chúa đáp: "Vâng,
thưa Mẹ, Mẹ cứ ở lại với Con để bắt chước tuỳ khả năng của
Mẹ. Con muốn rằng tất cả những sự trọn lành Con đem đến cho
các linh hồn, đều thể hiện cả nơi Mẹ". Từ đó, giữa hai Mẹ Con đã trao đổi những mầu nhiệm rất sâu xa, không thể kể
lại đây đầy đủ được. Chúa Hài Nhi thường sấp mình xuống đất;
có khi nâng mình lên không, hai tay giang thẳng như tay thánh
gía. Chúa cũng hay than khóc và nhỏ mồ hôi máu. Lúc ấy, khi
lau mặt cho Chúa, Mẹ Maria nhìn thấy trong linh hồn Chúa nguyên
nhân gây cho Chúa phải buồn sầu như vậy chính là sự tệ bạc
của loài người, và sự vô phúc của những kẻ phải trầm luân.
Đôi khi, trái lại, Mẹ thấy Chúa rất sáng láng rực rỡ, có nhiều
thiên thần đứng chung quanh hát lên ca tụng Chúa.
Lên
sáu tuổi Chúa bắt đầu ra khỏi nhà. Ngài vào những nhà cứu tế.
Ở vào cổ thời chưa có những viện cứu tế theo nghĩa đúng.
Nhưng từng cá nhân đã tuỳ theo khả năng mà tự nhận việc cứu
tế, được pháp luật và thông tục bảo đảm. Ngay từ thế kỷ thứ
bảy trước Chúa Giêsu, tiên tri Isaia đã khuyên làm việc này
một cách đáng chú ý: "Hãy
đón nhận vào nhà các ngươi những người nghèo khó và những người
không nhà ở" (Is 58:7). Mãi sau này, chịu ảnh hưởng của đạo Công giáo, người ta mới lập ra
các viện cứu tế đúng nghĩa và phục vụ với một nhiệt tâm đáng
thán phục để an ủi người nghèo và người bệnh nạn. Rất nhiều
người quen biết Chúa. Lời nói khôn ngoan và phong thái uy nghi
của Chúa chinh phục được rất nhiều cảm phục và yêu mến, nên
từ khắp nơi người ta đều đến chúc mừng Mẹ và Thánh Cả Giuse
vì có một người Con quý hoá như vậy. Người ta cũng mang đến
tặng Chúa nhiều lễ vật; khi nào thấy là đáng nhận, Chúa nhận
để phân chia cho người nghèo. Rất nhiều trẻ em đến với Chúa.
Chúa dạy dỗ các em một cách rất hiệu quả, nên tất cả về sau
đều trở nên những bậc đại thánh. Khi Chúa về nhà, Mẹ Maria
phủ phục vừa hôn chân Chúa, vừa tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho
các em vô tội ấy nhiều ân sủng. Cả khi Chúa sắp ra đi, Mẹ cũng
làm như vậy, và Chúa tỏ lòng nhân từ nâng Mẹ dậy. Mẹ cũng không
quên xin Chúa ban phép lành cho trước những hành vi ấy.
Càng thêm tuổi phong độ của Chúa càng nghiêm cẩn. Ngay sau
khi bỏ khăn lót, Chúa đã không chịu cho Mẹ và Thánh Cả Giuse
nâng niu mơn trớn như trẻ con nữa. Dung mạo Chúa in sâu một
vẻ uy nghiêm cao cả, đến nỗi sẽ không ai dám nói với Chúa,
nếu Chúa không có vẻ dịu hiền tuyệt vời tiết giảm lại. Nơi
Chúa, có một hoà hợp lạ lùng giữa khôn ngoan và nhân từ cao
cả, làm cho sự cao trọng của Thiên Chúa và sự nhỏ bé của một
thiếu nhi không cản trở nhau chút nào.
Mẹ
Maria cũng đem hết nhiệt tâm mừng kỷ niệm hằng năm: ngày Chúa
Nhập Thể và ngày Chúa Giáng Sinh. Mẹ chuẩn bị mừng lễ
bằng một tuần chín ngày. Trong chín ngày đó Mẹ hay phủ phục
giang thẳng cánh tay cầu xin Chúa Giêsu cảm ơn Chúa Cha cho
Mẹ. Theo lời Mẹ xin, các thiên thần từ trời xuống hợp với
các thiên thần hầu cận Mẹ, thành nên một ca đoàn tấu những
khúc
nhạc thiên quốc để chúc tạ. Nhưng những khúc nhạc đó vẫn
thua kém khúc nhạc mà các nhân đức của Mẹ đồng tấu dâng lên.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, mặc dầu Mẹ rất yêu tĩnh tâm im lặng, nhưng khi ở Ai Cập,
Mẹ cũng đã làm những việc thương xót để hoà hợp
với ý
chí bác ái của Con Mẹ, Đấng đã đặt tất cả quyền năng
của Ngài vào tay Mẹ. Theo gương Mẹ, con hãy làm việc để giúp
ích và
cứu độ tha nhân. Tuy nhiên, con đừng chạy theo cơ hội,
hãy cứ đợi chờ những cơ hội Chúa gửi đến cho con thôi.
Việc
luôn luôn phải làm là hãy cầu nguyện cho hết mọi người; là
hãy khóc than vì biết bao linh hồn bị hư mất; là hãy
lợi dụng tai hoạ họ mà dạy cho họ biết tránh khỏi những
căn cớ
gây ra tai hoạ.
Một
trong những căn cớ đó là họ yêu thích của cải trần gian. Cho
nên để chữa trị cái đam mê tai hại này, ngay
từ thơ ấu,
Con chí thánh Mẹ đã thực thi một đức nghèo tuyệt
vời. Lòng Ngài yêu thương nhân loại không lấy gì làm khó
cả. Ngay
từ giây phút đầu tiên cuộc sống con người của Ngài,
Ngài đã
bắt đầu ôm lấy Thánh giá. Lúc còn là thiếu nhi, Chúa
cũng đã thường
nằm theo thế Thánh giá và vẫn tiếp tục thế nằm ấy
suốt cuộc đời Chúa. Phần Mẹ, Mẹ cũng từng bắt chước Chúa
như thế. Mẹ
hợp nhất với hết mọi việc cũng như hết mọi lời cầu
nguyện Chúa làm và dâng lên thay cho nhân loại, ngay
từ hành
vi tri ân
đầu tiên khi Nhân Tính rất thánh của Chúa nhận ra
những ân huệ Cha trên trời ban cho Chúa.