|
BẬC
SỐNG VÀ LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC MA-RI-A
Xem:
- Lòng Sùng Kính Đức Ma-ri-a
- Gia Đình và Đức Ma-ri-a
- Noi Gương Đức Ma-ri-a
- Mẫu Tính Tinh Thần
- Người Độc Thân và Đức Ma-ri-a
Có thể coi Đức Ma-ri-a là mô phạm cho mọi
người noi theo vì Mẹ “là môn đệ số
một và hoàn hảo nhất của Chúa Ki-tô” (MC
35). Mọi ki-tô hữu đều phải trung
thành sống cho Thiên Chúa trong ơn gọi và trong
những hoàn cảnh thực tế cuộc sống
của họ. Làm sao những người được
mời gọi vào những bậc sống khác
nhau như giáo dân, như thành phần các tu hội
đời, như tu sĩ, như linh mục,
tất cả đều có thể noi gương
Đức Mẹ được?
1. Câu Trả Lời Tổng Quát
Trước hết, phải nhớ rằng Đức
Ma-ri-a không phải là một “gương mẫu”
cho các ki-tô hữu phải cố gắng bắt
chước rập khuôn theo nghĩa đen trong
mọi chi tiết đời sống của Mẹ.
Điều này không thể được vì nhiều
lý do. Đức Mẹ là “khuôn mẫu” hay “nguyên
mẫu” cho toàn thể Giáo Hội và cho từng
người tín hữu qua sự trọn hảo
bản thân vì Mẹ đã đáp lại tiếng
Chúa gọi trong đức tin, đức cậy
và đức ái siêu nhiên, một sự đáp ứng
đưa Mẹ đến chỗ hoàn toàn phục
vụ Chúa Ki-tô và anh chị em của Ngài (x. Noi
Gương Đức Ma-ri-a).
Hơn nữa, Đức Ma-ri-a không chỉ là
một mẫu gương, Mẹ còn hiện diện
bằng lời cầu nguyện và sự ân cần
hiền mẫu trong đời sống của
Giáo Hội và trong đời sống anh chị
em của Con Mẹ (x. LG 62). Vì tính chất hoàn
hảo và vô song trong sự đáp ứngå trước
tiếng Chúa gọi, Đức Ma-ri-a đã trở
thành một “mẫu gương” cho tất cả
mọi người - “Một giá trị gương
mẫu mãi mãi và phổ quát” (MC 33). Đồng
thời, vì Đức Ma-ri-a là Mẹ tinh thần
đối với từng người, nên chúng
ta có thể và nên sống địa vị làm
con Đức Mẹ của mình theo cách thế
riêng. Vì thế, không “bậc sống” nào có thể
nói rằng Đức Ma-ri-a là của riêng họ.
Thật thú vị và hữu ích khi thấy rằng
giáo dân, tu sĩ, thành viên các tu hội đời,
linh mục, mỗi người với những
đặc điểmcủa bậc sống mình
đều có thể nhận Mẹ làm mẫu
gương. Điều này không có gì mới lạ
vì thực tế vốn là một truyền thống
trong Giáo Hội.
2. Giáo Dân
Danh từ giáo dân được chỉ cho “tất
cả những ki-tô hữu không thuộc hàng giáo
sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội
công nhận” (LG 31).
“Vì ơn gọi, giáo dân có bổn phận tìm kiếm
nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc
trần thế và xếp đặt chúng theo ý
Thiên Chúa” (LG 31).
“Vì bản chất riêng biệt của người
giáo dân là sống giữa đời và làm việc
đời nên chính họ được Thiên Chúa
mời gọi, để một khi tràn đầy
tinh thần Chúa Ki-tô, họ làm việc tông đồ
giữa đời như men trong bột” (Va-ti-ca-nô
II, sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, 2).
Hoàn cảnh của Đức Ma-ri-a, với ơn
gọi làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ tất cả
mọi người, chắc chắn là vô song và
không thể bị hạ thấp cho ngang bằng
người khác. Tuy vậy, nhưng nếu phải
xếp Mẹ vào một bậc sống như
giáo luật hiện nay ấn định, thì Mẹ
không phải là giáo sĩ cũng không phải là
tu sĩ, nhưng là giáo dân.
Như thế, khi quyết tâm sống địa
vị làm con cái Thiên Chúa và làm môn đệ Chúa
Ki-tô, người giáo dân không cần phải đắn
đo khi nhận Mẹ là mẫu gương của
mình: một người nữ trong môi trường
thời đại và xã hội, rất bận
bịu với những “việc đời” xảy
đến với mình nhưng đã sắp đặt
chúng hoàn hảo phù hợp với chương
trình của Chúa. Nơi Mẹ, họ có thể
học biết hoặc thâm hiểu rằng qua
việc thực thi các công việc hằng ngày
của mình như một công tác “phục vụ”
được Chúa trao phó, họ sẽ chu toàn
sứ mạng tông đồ mà bí tích Thánh Tẩy
đã trao cho họ.
Gương mẫu hoàn hảo của đời
sống thiêng liêng và đời sống tông đồ
ấy chính là Đức Trinh Nữ Rất Thánh
Ma-ri-a, Nữ Vương Các Tông Đồ. Khi
còn sống ở trần gian, Người đã
sống một cuộc sống như mọi
người, vất vả lo lắng cho gia đình,
nhưng luôn luôn kết hợp mật thiết
với Con mình và đã cộng tác vào công việc
của Đấng Cứu Thế một cách riêng
biệt” (sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân,
4).
Công Đồng còn thêm rằng, thực sự
các giáo dân có thể và hãy trông cậy Đức
Mẹ trợ giúp để làm cho các hoạt động
của họ càng mang tính chất Ki-tô và được
kết quả bởi vì “sau khi đã được
đưa lên trời với tình yêu thương
của người Mẹ, Đức Ma-ri-a săn
sóc những đứa em của Con Mẹ đang
trên đường lữ hành gặp nhiều
nguy hiểm và thử thách. Mẹ lo lắng cho
tới khi họ về tới quê hương
hạnh phúc” (x. LG 62). “Mọi người hãy hết
lòng tôn sùng Mẹ và phó thác đời sống và
cả công việc tông đồ của mình cho
Mẹ coi sóc” (LG 4).
3. Thành Viên Các Tu Hội Đời
Theo sắc lệnh Công Đồng về Thích
Nghi và Đổi Mới Đời Tu Trì (Perfectae
Caritatis, 11), “những tu hội đời, tuy
không phải là dòng tu, nhưng cũng có lời
khấn thật sự và trọn vẹn được
Giáo Hội công nhận.” Với sắc chỉ
Provida Mater ban hành ngày 2 tháng 2 năm 1947, Đức
Pi-ô XII đã chuẩn y việc thành lập các
tu hội đời theo giáo luật.
Theo lời hồng y Ban-ta-sa( H.U. von Balthasar), điều
này có nghĩa là ngày nay, “Giáo Hội đã làm ra
một đường cung nối liền hai
bậc sống - tu sĩ và giáo dân - khi chấp
nhận sự tổng hợp hai bậc sống
ấy trong các tu hội đời: đó là mối
hợp nhất mật thiết nhất với
Thiên Chúa trong việc sống các lời khuyên Phúc
Âm và là mối liên hệ gắn bó nhất với
anh chị em trong tình liên đới phấn đấu
và dấn thân giữa lòng thế giới. Đây
có lẽ là mô hình (design) ki-tô quan trọng nhất
trong thời đại của chúng ta.”
Mới đây ngày 28 tháng 8 năm 1980, Đức
Gio-an Phao-lô II cũng nhận định rằng:
“Bậc tận hiến là một tặng ân đặc
biệt Chúa Thánh Thần ban cho thời đại
chúng ta,” có thể “cống hiến những đóng
góp tinh thần hiệu quả cho tương lai
và khai mở những con đường mới
mẻ dẫn đến giá trị phổ quát
cho Dân Chúa.” Vì thế, ngài kêu nài “sự can thiệp
đầy mẫu ái của Đức Trinh Nữ,”
ban “những ân sủng ánh sáng, khôn ngoan, và quyết
định trong việc kiếm tìm những phương
thế tốt hơn.”
Suy nghĩ về “ba điều kiện quan trọng
cơ bản” Đức Thánh Cha đã lưu ý
trong bài nói chuyện với các tu hội đời
để sứ mạng các thành viên của họ
được hiệu quả (trở thành môn
đệ thật của Chúa Ki-tô; đủ khả
năng trong các lãnh vực chuyên môn; và đủ
sức thay đổi thế giới từ bên
trong), chúng ta dễ dàng thấy được
cách thế và mức độ ơn soi sáng, ơn
khôn ngoan và quyết định mà họ có thể
nhận được từ đời sống
gương mẫu và sự can thiệp của
Đức Ma-ri-a.
Thực sự, như Đức Phao-lô VI nhận
định: “Hình ảnh Đức Trinh Nữ
không phụ lòng khát vọng sâu xa của người
đời nay, nam cũng như nữ, mà còn cống
hiến cho họ một mẫu người môn
đệ Chúa hoàn hảo: Người xây dựng
xã hội trần thế nhưng cũng mau mắn
tiến bước về thánh đô trên trời
; Người hoạt động tích cực cho
công bình bác ái để giải thoát kẻ bị
áp bức và cứu giúp kẻ gặp cơn túng
quẫn, nhưng trên hết, làm chứng đắc
lực cho tình yêu để xây dựng Chúa Ki-tô
trong mọi cõi lòng” (MC 37).
Theo nghĩa này, Đức Ma-ri-a thực sự
là “mẫu gương hoàn hảo” cho mọi thành
viên các tu hội đời bởi vì Mẹ là
thày dạy khôn sánh về đời sống “tổng
hợp” chuyên biệt của họ, “một mối
hợp nhất hết sức mật thiết
với Thiên Chúa trong việc sống các lời
khuyên Phúc Âm và liên hệ thật gắn bó với
anh chị em mình.”
4. Tu Sĩ
Xét về bản chất, sự hoàn thiện bản
thân mà các tu sĩ được mời gọi
theo đuổi không hề khác biệt so với
sự thánh thiện mà bí tích Thánh Tẩy đòi
buộc mọi ki-tô hữu khác. Nhưng những
phương thế đặc thù mà họ sử
dụng và khấn giữ đã đặt họ
vào một địa vị khác biệt phần
nào xét về “những sự đời này” và
đem lại cho nếp sống những thực
tại Nước Trời giữa trần gian
này của họ một ý nghĩa đặc biệt.
Các tu sĩ khước từ hành vi chiếm hữu
và sử dụng của cải vật chất
bằng lời khấn khó nghèo. Họ từ bỏ
quyền xây dựng gia đình bằng lời
khấn khiết tịnh. Và họ tự giới
hạn phạm vi tự do của mình bằng
lời khấn tuân phục.
Khi sống như thế, các tu sĩ không hề
chối bỏ hay coi khinh giá trị những đối
tượng họ từ khước, và khả
năng những đối tượng ấy
có thể giúp họ đến được
với Chúa là Đấng đã tạo dựng
nên chúng. Họ chỉ nói rằng những đối
tượng ấy - ắt hẳn họ đã
được ban và sẵn lòng hy sinh khi Chúa yêu
cầu - chỉ là tương đối nếu
sánh với những giá trị cao quí hơn của
Nước Trời. Điều đem lại
cho hành vi tuyên khấn tu trì một ý nghĩa đích
thật và sâu xa nhất, nói cho chính xác, đó là
việc thánh hiến người tu sĩ cho Thiên
Chúa và cho Nước Trời.
Mặc dù tám mối phúc, hiến chương Nước
Trời vẫn là luật sống cho mọi môn
đệ Chúa Ki-tô, nhưng các tu sĩ còn có thêm
một sứ mệnh khác đã được
Giáo Hội xác định và chuẩn nhận,
đó là công bố luật sống ấy một
cách hiệu quả hơn nữa bằng chính
nếp sống của mình: “Phần các tu sĩ,
do bậc sống của họ, làm chứng cách
hùng hồn và cao qúi rằng người ta không
thể cải tạo thế giới và cung hiến
nó cho Thiên Chúa được nếu không có tinh
thần tám mối phúc” (LG 31).
Vì sao và bằng cách nào Đức Ma-ri-a lại
là mẫu gương hoàn hảo cho các tu sĩ
nỗ lực noi gương là điều không
có gì khó hiểu. Ai đã đạt được
viên mãn cùng đích mà các tu sĩ theo đuổi
cho bằng Đức Ma-ri-a?
Cụ thể là sự hiến thân trọn vẹn
cho Thiên Chúa. Mọi sự nơi Đức Ma-ri-a,
tuyệt đối mọi sự đều được
qui hướng về Chúa Ki-tô và sứ mệnh
của Ngài. Nếu có một ai đã được
thánh hiến cho Chúa trọn vẹn và tuyệt
đối, thì người ấy chính là Đức
Ma-ri-a. Nếu có ai đã theo sát Chúa bất chấp
khó khăn, theo sát trong tình yêu và hiến thân trong
siêu thoát và vâng phục, thì người ấy chính
là Đức Ma-ri-a. Chắc chắn, điều
mà các tu sĩ khát khao thì Đức Ma-ri-a, “người
môn đệ hoàn hảo của Chúa Ki-tô” đã
đạt được viên mãn hơn bất
cứ ai khác. Về chứng từ sứ mạng
mà các tu sĩ có bổn phận phải thể
hiện thì Đức Ma-ri-a đã thể hiện
một cách trọn hảo.
Việc chiêm ngắm Đức Ma-ri-a đem lại
cho các tu sĩ một lời nhắc nhở rõ
ràng và không thể phai nhòa về ơn gọi mà
họ đã được mời gọi đến,
nhất là căn tính hành vi chọn lựa Chúa
Ki-tô thể hiện qua cách sống của họ.
Trông cậy vào Mẹ và sự phù trợ hiền
mẫu mà Mẹ không bao giờ từ chối,
các tu sĩ vững tiến dễ dàng hơn, nhanh
chóng hơn trên bước đường “theo
Chúa Ki-tô” sát kề, với hết khả năng
nhân loại của họ.
“Như thế, nhờ lời cầu bầu của
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất dịu hiền,
Mẹ Thiên Chúa, mà cuộc đời của Mẹ
là khuôn mẫu cho mọi người (thánh Am-rô-si-ô),
các hội dòng mới một ngày một bành trướng
và trổ sinh những hoa trái cứu rỗi dồi
dào hơn” (Perfectae Caritatis, 25).
Có lẽ ta cần làm sáng tỏ thêm ít điều
về cuộc sống thực tế trong bậc
tu trì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a là mô phạm
trong việc sử dụng tài sản vật chất,
trong đức vâng phục theo tinh thần đức
tin, trong sự hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa
qua sự hiến thánh khiết trinh. Nhưng cần
phải nhắc lại rằng ơn gọi của
Đức Ma-ri-a là ơn gọi độc nhất,
và chính vì lý do ấy nên vượt quá mọi nhận
thức của chúng ta.
Ví dụ, thử suy về sự thánh hiến
khiết trinh của Mẹ. Nơi Mẹ, sự
thánh hiến ấy không thể tách biệt với
thiên chức Mẹ Thiên Chúa, thiên chức mà vì đó
sự thánh hiến khiết trinh của Mẹ
đã được an bài. Theo chương trình
của Thiên Chúa, thiên chức làm mẹ này đã
làm cho Đức Ma-ri-a hiển nhiên thực sự
trở nên độc nhất và “không thể bắt
chước,” cả với tu sĩ cũng như
với bất cứ giáo dân nào. Tuy vậy, đức
trinh khiết của Đức Ma-ri-a lại là
một thành tố quan trọng trong đời
sống thiêng liêng của các tu sĩ. “Nữ Vương
Các Kẻ Đồng Trinh” là một trong các tước
hiệu của Đức Mẹ.
Tước hiệu này gợi lên rằng mục
đích chính yếu của sự thánh hiến
khiết trinh của Đức Ma-ri-a cho Chúa Giê-su
Con Mẹ là để thuộc về Chúa trọn
vẹn, duy chỉ có điều này mới có thể
làm sung mãn một con tim mang những chiều kích
phổ quát của tình yêu siêu nhiên. Mục đích
ấy cũng chính là động lực cho sự
thánh hiến của các tu sĩ, những người
hướng về Đức Ma-ri-a như chỗ
dựa cho lời khấn độc thân và thành
quả phong phú của nó. Trong niềm thành thực
tôn kính Đức Ma-ri-a, người tu sĩ có
thể tìm được nguồn sức mạnh
để sống và kiên trung trước những
hậu quả của điều họ đã
hy sinh.
Tấm gương của Đức Ma-ri-a còn
nhắc nhở người tu sĩ rằng, dù
cho những phương thế mà họ thực
hành trong cuộc sống như các lời khấn
chẳng hạn, có hoàn hảo “khách quan” và giá trị
đối với Giáo Hội và thế giới
đến đâu đi nữa cũng chỉ
là những phương thế mà thôi. Chỉ có
một sự cần duy nhất, unum necessarium
đó là Chúa Ki-tô, Lời Hằng Sống của
Thiên Chúa, Đấng mọi người phải
tin bằng tất cả hữu thể, Đấng
mọi người phải noi bước tùy
theo ơn gọi riêng để đời sống
của họ được phù hợp với
các mối phúc thật: “Phúc cho Bà vì đã tin rằng
những lời Chúa phán cùng Bà sẽ được
thực hiện” (Lc 1:45). “Mẹ Ta và các anh em Ta
là những người nghe Lời Thiên Chúa và đem
ra thực hành” (Lc 8:21).
5. Linh Mục
Vấn đề Đức Ma-ri-a và linh mục
có phạm vi bao la, không thể nào bàn luận đầy
đủ được, ở đây chỉ
xin đề cập đôi nét.
Trước hết, xin nhớ là mặc dù Đức
Ma-ri-a tham dự mật thiết hơn bất
cứ ai vào các quyền vương giả, ngôn
sứ, và tư tế mà Chúa Ki-tô đã thông truyền
cho dân Ngài, nhưng nói cho chính xác thì Mẹ không
phải là một tư tế “thừa tác.” Chẳng
hạn trên núi Can-vê, Đức Ma-ri-a thực sự
là “Trinh Nữ hiến dâng lễ vật” (MC 20),
nhưng chỉ theo ý nghĩa thông phần mà Chúa
Ki-tô đã mời gọi tất cả mọi
môn đệ của Ngài. Trường hợp
của Mẹ là sự thông phần độc
nhất và điển hình đối với Giáo
Hội nhưng không phải một sự thông
phần theo ý nghĩa “thừa tác.” Vì việc thông
phần “thừa tác” khi chính vị Tư Tế
Tối Cao đang hiện diện trong hành vi hiến
tế của Ngài sẽ hoàn toàn dư thừa.
Một điểm nữa là linh mục có một
tác vụ đặc biệt trong Giáo Hội phần
nào tương tự những nhiệm vụ
của Đức Ma-ri-a. Các linh mục được
tấn phong để Chúa Ki-tô có thể tiếp
tục hành vi cứu độ của Ngài bằng
cách thế được thích nghi theo những
điều kiện của cuộc sống dương
thế. Hậu quả là nhờ tác vụ các linh
mục, Chúa Ki-tô duy trì sự hiện diện của
Ngài giữa trần gian hôm nay, hiện diện
trong thực tại Hy Sinh cứu độ của
Ngài để liên kết mọi người với
Ngài và làm thành Thân Thể Mầu Nhiệm của
Ngài là Giáo Hội.
Nhờ Mẹ Ma-ri-a, Ngôi-Lời-Đã-Thành-Nhục-Thể
được hiện diện trong huyết thống
nhân loại để cứu độ nó, và Ngài
đã yêu cầu Mẹ cộng tác với tất
cả hữu thể của Mẹ vào công trình
cứu độ, công trình mà qua đó Ngài liên kết
chúng ta với Ngài trong Giáo Hội như những
chi thể của Thân Thể Ngài. Và Đức
Ma-ri-a, Mẹ của tất cả chúng ta, Mẹ
của Giáo Hội, vẫn tiếp tục hiến
thân vì sự phát triển của Chúa Ki-tô Toàn Thể
(x. Mẫu Tính Tinh Thần).
Như thế, các linh mục và Đức Ma-ri-a
mỗi bên đều có cách thế riêng nhưng
trên căn bản cùng qui hướng về chung
một mục đích và khách quan liên kết với
nhau trong cùng một sứ vụ căn bản,
mặc dù bằng những loại hình hoạt
động khác nhau. Và, giống như mối
quan hệ và sự cộng tác đặc biệt
với Chúa Ki-tô đã hàm chứa một yêu sách
đòi Mẹ phải có một sự trọn
hảo tương xứng, thì các linh mục cũng
thế: ơn gọi linh mục đòi các ngài
phải tiến đến một sự hiệp
nhất bản thân với Chúa Ki-tô tương
xứng với đặc tính làm dụng cụ
của Đấng Cứu Thế trong khi thi hành
tác vụ linh mục.
Vì vậy thiên chức linh mục là một lý do
rất mạnh để các giáo sĩ chiêm ngưỡng
Đức Ma-ri-a hầu học tập nơi
Mẹ cách thức hiến mình hoàn toàn phục
vụ Chúa Ki-tô, Giáo Hội của Ngài và anh em đồng
loại. Các ngài không hề lừa dối mình khi
nghĩ rằng các ngài có quyền được
Mẹ quan tâm đặc biệt vì sứ mệnh
đặc biệt và những nghĩa vụ bậc
mình. Lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a nhất định
không thể xa lạ đối với đời
sống tinh thần của một vị linh mục
đích danh là linh mục như Công Đồng
Va-ti-ca-nô II đã chỉ rõ: “Các linh mục luôn
tìm thấy gương mẫu lạ lùng về
sự dễ vâng phục nơi Đức Ma-ri-a,
Người được Chúa Thánh Thần dẫn
dắt đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm
cứu chuộc loài người; các linh mục
phải lấy lòng con thảo thành kính tôn sùng và
mến yêu Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Mẹ
của Linh Mục Thượng Phẩm vĩnh
viễn, là Nữ vương Các Tông Đồ
và là Đấng Bảo Trợ thừa tác vụ
linh mục” (sắc lệnh Tác Vụ và Đời
Sống Linh Mục, 18).
6. Những Trạng Huống Đa Dạng Trong
Cuộc Sống
Cuộc sống ki-tô hữu là cuộc sống
của Chúa Ki-tô được thể hiện
nơi chúng ta. Nếu chúng ta muốn mô phỏng
theo, muốn được cách sống của
Chúa thấm nhuần và biến đổi, chúng
ta phải bắt đầu bằng những
hoàn cảnh thực tế trong cuộc sống
của mình. Theo một mức độ nào đó,
phương diện cụ thể mà chúng ta nhìn
ngắm nơi Chúa hay Đức Mẹ ở vào
một lúc nào đó bị điều kiện
hóa bởi chính hoàn cảnh trong thời điểm
đó. Thông thường, lúc bị thử thách
hay sầu khổ, chúng ta hướng về Chúa
Ki-tô và Mẹ Ma-ri-a trên đỉnh Can-vê; lúc hân
hoan, chúng ta tự hát lên khúc Magnificat của Đức
Mẹ; lúc những bạn trẻ suy tư về
ơn gọi của mình, họ ngắm nhìn Đức
Mẹ lúc được truyền tin; với
địa vị làm mẹ trong gia đình, người
ta thích nghĩ đến Đức Ma-ri-a trong
địa vị người mẹ đặc
biệt trong nếp sống tại nhà Na-da-rét;
người góa bụa thường suy đến
hoàn cảnh của Mẹ sau khi Thánh Giu-se qua đời;
người lớn tuổi thích tưởng nghĩ
đến việc Mẹ viên phần cuộc
đời dương thế và mong đợi
trở về nhà Cha. “Việc thực tế hóa”
như thế có thể giúp ta cảm nhận được
sự gần gũi của Mẹ cũng như
khả năng thông cảm và trợ giúp của
Mẹ dành cho chúng ta (x. Đức Ma-ri-a, Người
Chị Chúng Ta).
Nhưng những nét tương đồng giữa
đời sống chúng ta và đời sống
của Mẹ trong những hoàn cảnh cụ
thể luôn mang tính cách một chiều, đó không
phải là lý do chính yếu vì Đức Ma-ri-a
là Mẹ của mọi lứa tuổi và mọi
hoàn cảnh. Đúng hơn, trong mỗi hoàn cảnh,
chúng ta đều có thể tìm được
sự trợ giúp và nâng đỡ ở sự
tốt lành vô bờ của Mẹ, Người
mà Thiên Chúa đã vui lòng ban để làm mẹ
chúng ta.
A.
Bốt-sa, A. Rum
|
|