NGƯỜI NGHÈO ĐỨC GIA-VÊ
VÀ ĐỨC MA-RI-A
1.
Người Nghèo Đức Gia-vê Trong Ít-ra-en
Theo
Cựu Ước, “người nghèo” là người hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Gia-vê.
Họ không chỉ nghèo về tiền bạc. Như Thần Khí đã hoạt động trong
chốn hỗn mang từ thuở ban sơ để tác thành mọi sự, Đức Gia-vê cũng
hoạt động nơi những người nghèo khó để tác thành mọi điều tốt
lành cho họ. Chính Đức Gia-vê đã ban cho họ một miền đất sau khi
xua đuổi cư dân Pa-lét-tin trước mặt họ. Và cũng chính Đức Gia-vê
đã ban cho họ lề luật qua Môi-sen. Trong tất cả những trường hợp
ấy, khả năng nhân loại thuần túy đều tỏ ra bất lực và không làm
được gì.
Theo
dòng thời gian, người Ít-ra-en đã quên mất bài học đó và nhiều
khi chỉ cậy dựa vào nỗ lực bản thân. Điều này chẳng những không
đem lại lợi ích nào cho họ, mà còn tệ hơn nữa, vì đó là một thất
trung với Thiên Chúa. Các tiên tri đã nói về những người còn sót
lại trong Ít-ra-en vẫn tín trung và được thừa hưởng các lời hứa
của Đức Gia-vê (Is 6:13; 37:31; Mk 4:6-7).
Dần
dần, những người Ít-ra-en sót lại ấy đã được đồng hóa với ý niệm
anawim, “người nghèo của Đức Gia-vê”: “Sẽ xảy ra là trên toàn
xứ - sấm của Gia-vê - hai phần ba sẽ bị chặt phăng và chết, và
một phần ba sẽ được chừa lại... Chúng sẽ kêu cầu danh Ta và Ta
sẽ nghe lời chúng. Ta sẽ nghe lời chúng. Ta sẽ nói, “chúng là
dân Ta” và chúng sẽ nói, “Gia-vê là Thiên Chúa của ta” (Dcr 13:8-9).
Tác giả Thánh Vịnh cũng diễn dịch ý tưởng này khi nói: “Thiên
Chúa yêu thương dân Người, và Người ban cho kẻ nghèo hèn vinh
quang thắng trận” (Tv 149:4).
Một
điển hình rõ nét nhất về người nghèo của Đức Gia-vê là tiên tri
Giê-rê-mi-a. Ông áy náy vì danh hiệu tiên tri. Ông thấy mình không
lợi khẩu như các tiên tri khác, vàsứ điệp của mình ít khi được
đồng bào chấp nhận. Ông chịu đủ mọi thiếu thốn và tủi nhục. Tuy
nhiên, đời sống của ông trở thành một biểu tượng cho mọi người
nghèo của Đức Gia-vê, những người luôn trung kiên trong niềm cậy
trông và yêu mến: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy ca khen Thiên
Chúa vì Người đã giải thoát mạng người nghèo khổ khỏi sức mạnh
của bọn ác nhân” (Gr 20:13). Đến gần thời Tân Ước, những người
Ít-ra-en còn sót lại này đã được thanh luyện khỏi mọi u mê tội
lỗi, hoàn toàn mở rộng cửa lòng và lệ thuộc vào Đức Gia-vê.
2.
Đức Ma-ri-a, Người Nghèo Tuyệt Vời của Đức Gia-vê
Khi
được Đức Ma-ri-a thăm viếng, bà Ê-li-sa-bét đã reo lên: “Phúc
cho em vì đã tin rằng mọi lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”
(Lc 1:45). Do việc đón nhận sứ điệp về Đức Giê-su (Lc 1:38-45),
Đức Ma-ri-a đã trở thành môn đệ số một của Ngài.
Thực
sự, Mẹ là người phát ngôn cho mọi môn đệ Chúa Ki-tô trong tư cách
đại diện cho những người nghèo của Đức Gia-vê. Gơ-lanh (Albert
Gelin) phát biểu: “Khúc hòa tấu nguyện cầu tuyệt tác vang lên
từ Giáo Hội của người nghèo chính là khúc dạo đầu bài ca Magnificat.
Tất cả đời sống tâm linh của những thế hệ tiền nhân đã đạt đến
điểm cao, điểm trưởng thành nơi Đức Ma-ri-a và mỗi người nghèo,
mỗi thành phần của dân tộc Ít-ra-en chân chính đã được chuẩn bị
và tung hô Mẹ."
Như
vậy, Đức Ma-ri-a là thủ lãnh cộng đồng những người đạo đức trong
Tân Ước, bao gồm Da-ca-ra-a, Ê-li-sa-bét, các mục đồng viếng hang
đá, những người đau khổ, các bà góa và những trẻ mồ côi, đối nghịch
lại với bọn người tự kiêu tự mãn cậy dựa vào sức mình, bất cần
Đức Gia-vê.
Đức
Ma-ri-a đã không chối từ danh hiệu “được chúc phúc” vì hôm đó,
Mẹ đã hiểu được - theo khả năng con người của Mẹ - sự toàn nhất
(unity) của cuộc đời mình. Mẹ đã vào mầu nhiệm ơn gọi của mình
và đã hết lòng phó mình cho chương trình Thiên Chúa, một chương
trình vượt quá mọi khả năng riêng của Mẹ. Trong chương trình ấy,
Mẹ là Nữ Tì của Thiên Chúa.
Hơn
nữa, Mẹ đã làm cho hành vi mạo hiểm ấy trở nên bất hủ qua bài
ca Magnificat, “bài ca Người Nghèo của Đức Gia-vê.” Bài ca này,
cũng theo Gơ-lanh, “hơn hẳn một tấm thảm dệt toàn bằng những lời
trích dẫn trong Cựu Ước. Ở đây chúng ta có một Người Nữ tự nhận
mình là anawim, và ý thức được điều tân kỳ của mầu nhiệm Nhập
Thể, thành ra Mẹ đã trở thành một biểu hiện tuyệt hảo và sống
động cho những người nghèo của Đức Gia-vê.”
Người
ta không thể không nhận ra mối tương liên giữa bài ca Magnificat
và hiến chương Tám Mối Phúc. Học giả Thánh Kinh lừng danh J.M.
La-gơ-răng (J.M. Lagrange) đã nói: “Giả như không xét đến sự phát
triển nhân tính (của Chúa Giê-su), chúng ta vẫn có thể nói rằng
chúng ta có khả năng nhìn thấy nơi Ngài, cũng như nơi rất nhiều
người khác, một cái gì đó ảnh hưởng từ Đức Mẹ.” Lắng nghe những
lời nói và chú ý đến những hành động của Mẹ tại làng quê Na-da-rét,
Chúa Giê-su ắt hẳn đã cảm thấy yêu mến những người nghèo khó của
Đức Gia-vê, những người về sau Ngài đã tuyên nhận làm môn đệ của
Ngài: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của
họ” (Mt 5:3).
Là
hiện thân niềm tín thác và thái độ đón nhận Đức Gia-vê (những
phẩm chất nổi bật của những anawim), Đức Ma-ri-a là cầu nối giữa
Cựu Ước và Tân Ước, giữa hy vọng và những lời hứa trong Cựu Ước
với sự hiện thực hoàn thành trong Nước Chúa. Mẹ vẫn mãi là một
mẫu mực cho lòng đạo đức Ít-ra-en và tiên báo tinh thần của những
ki-tô hữu tiên khởi sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
A.
Buy-ô-nô
|